Tìm ý Chúa
TÌM Ý CHÚA
Lm. Felipe Gomez, S.J.
Chúng ta lo tìm ý Chúa có thể vì ân sủng thúc đẩy chúng ta
luôn muốn thực thi thánh ý Chúa, hoặc có thể vì lý do khác không cao đẹp bằng.
Ðức tin dạy rằng ý muốn của Thiên Chúa là quy tắc tuyệt đối cho nhân loại. Kinh
Thánh có nhiều thí dụ. Thánh vịnh 119, dài nhất, chỉ có một chủ đề là thánh ý
Chúa. Tv 40:7-9 được thư Do thái áp dụng vào bản thân Ðức Giêsu, như chuẩn mực
của cuộc đời này: ưu tiên tối cao của con người là làm theo ý Chúa, chứ không
phải theo những nghi thức thờ phượng. Vì những ai kêu lên, “Lạy Chúa, lạy Chúa” chưa chắc sẽ vào thiên đàng, song là những ai
thi hành ý Cha ở trên trời mới được cứu rỗI (xem Mt 7:21). Ðúng vậy,
ai làm theo ý Chúa trở nên bà con với Chúa Kitô! (xem Mt 12:50). Ðó là
lý do tại sao các Kitô hữu, trên bất cứ điều khác, phải gắng công thực hiện ý
Cha ở trên trời. Ngày nào chúng ta cũng cầu xin: “Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên Trời”. Chúng ta hằng nhớ đến
Ðức Giêsu, khi Ngài cầu nguyện: “Abba
Cha, xin đừng làm điều con muốn, mà làm điều cha muốn” (Mc 14:36); nhưng
ngay cả Ngài nữa cũng không dễ biết ý Cha. Tìm kiếm “Thiên mệnh” là mục đích của nhiều nghi thức trong các truyền thống
tôn giáo. Nếu có một bộ Kinh điển, thì chắc chắn mọi giáo hữu muốn tham khảo
quyển sách tìm ý Thượng đế đã mặc khải. Nhiều tín đồ hỏi thần thánh ở nơi
linh thiêng và theo lời sấm truyền, hoặc bói một quẻ xem sao. Kẻ thì hỏi thầy
tinh thần (guru), người thì tĩnh tọa suy niệm, hoặc khẩn nài xin ánh
sáng, v.v. Những ao ước ấy đích thực, vì cho thấy mình vô tri vô giác, bất lực
trước đấng tuyệt đối phải vâng phục. Ðàng khác, chúng ta cảm thấy mình bị giằng
co về mọi phía do nhiều “tinh thần” khác nhau, với những mục tiêu mâu thuẫn, đến
nỗi càng có thiện chí mình lại càng thấy bơ vơ không biết quay vào đâu: phía
nào cũng có lý. Vậy thì phải phân định các tinh thần, đó là điều không tránh được
(xem 1Gioan 4:1-3).
Tâm lý học chứng minh rằng loài người ít khi làm điều gì chỉ
vì một lý do thuần khiết. Chúng ta có khuynh hướng bẩm sinh muốn lo cho mình được
an toàn bảo đảm; giáo hữu muốn biết “chắc chắn” đó là ý Chúa, vì làm theo ý
Chúa là “vé” vào nước trời. Ða số các tín hữu mắc phải bệnh “kém tin” (xem
Mt 6:30; 8:26; 14:31; 16:8), khiến họ không tin tưởng vào bàn tay nhân ái của
Cha Cả, không dám liều mình vào lòng Người. Tệ hơn nữa là tham vọng bí ẩn thao
túng Thiên Chúa: cách cực đoan là tội ảo thuật; nhưng cũng có thái độ có vẻ
trong trắng là cứ thử mặc cả với Chúa: con làm ý Chúa thì Chúa làm ý con nhé!
Con ngoan ngoãn rồi thì khi con xin Chúa phải cho. Lòng trung thành đã bị dùng
như con chủ bài.
Kinh nghiệm tôn giáo có tính cách cá nhân đến nỗi không ai
có thể nói thay cho ai: mỗi người chỉ có thể nói về chính mình thôi. Tuy nhiên
chúng ta có thể nói cái gì khả dĩ áp dụng (ít ra là một phần nào) cho tất cả mọi
người. Thành thật tìm kiếm ý Chúa, đó là nguồn an tâm bình tĩnh. Nếu lúc xét
mình trước khi đi ngủ tôi thấy mình hết lòng ráng làm đẹp ý Chúa, thì chắc chắn
tôi có thể dự kiến được những giấc mơ ngọt ngào. Các tôn giáo khác nhau theo những
lối khác nhau để đạt đến sự bình tâm này. Có “lối tiêu cực” của đạo Phật nghĩa
là tiêu diệt mọi ham muốn, vì ai không mong muốn gì thì cũng không đau lòng khi
thiếu. Cũng có “lối tiêu cực” Kitô giáo, không ham muốn điều gì hết để trở nên
tự do mà theo ý Chúa. Hoặc cách “tích cực” tìm ý Chúa theo lối nhận định
(discernment). Cả hai lối đều có thể tốn kém, vì – như người ta nói – ân sủng
không rẻ đâu. Mỗi người phải thử xem lối nào thích nghi hơn với mình. Trong
truyền thống Công giáo, các thánh đã trình bày những phương pháp nhận định, mà
sau này trở nên những nền linh đạo, như Phanxicô, Biển Ðức, Cát Minh, I-Nhã,
Thánh Linh, v.v. Tùy tính tình, mỗi người cảm thấy thoải mái hơn trong một linh
đạo; tuy nhiên nên thí nghiệm và xét kỹ kết quả suốt một thời gian, vì đường dễ
chưa chắc là đường chính. Kinh nghiệm thiêng liêng được dựng bằng các sự việc
nhỏ, vì chúng ta thường không làm nhiều phép lạ! Ai quen nhận ra Thần khí trong
những chọn lựa nhỏ, thì đã có được con mắt sáng suốt lúc phải đứng trước ngã ba
sinh tử.
Trong bài này cũng nên ngỏ đôi lời về một kinh nghiệm đau đớn
là sự ngại ngùng đến nỗi làm tê liệt (scruples) trong đời sống thiêng
liêng. Vốn là tật bệnh của những linh hồn tốt đẹp và lương tâm tinh khiết; kẻ
nhẫn tâm hoặc thờ ơ đâu có kinh nghiệm ấy. Ao ước tìm kiếm ý Chúa là điều tốt;
nhưng lo quá chừng mức thì có thể gây rối. Nó có thể là hậu quả của thái độ muốn
luôn luôn làm điều tốt nhất, mà quên mất rằng “tốt nhất” lắm khi nghịch với cái
tốt đơn giản. May mắn cho chúng ta, Chúa không hề đòi hỏi chúng ta phải luôn
luôn làm điều tốt nhất. Cái tật “ngại ngùng đến nỗi làm tê liệt” ấy cũng có thể
phát sinh từ tật luôn luôn muốn biết chắc chắn mình đúng, nhưng lại quên rằng
chúng ta bao giờ cũng sống trong đức tin tối tăm. Thiên Chúa là Cha muốn con
cái Người làm theo ý của họ, vì tin chắc con thảo nào tự nhiên cũng muốn điều
Cha mình muốn. Dù sao, nếu lỡ như mình mắc tật ấy, thì phải nhờ bạn giúp – và để
người có kinh nghiệm – một Cha linh hướng – dắt tôi ra khỏi khủng hoảng. Và nếu
gặp ai trong trường hợp ấy thì phải biết thương xót và nhân ái thông cảm, vì
kinh nghiệm scruples đau đớn lắm.
Linh đạo I-Nhã đã chú tâm đặc biệt đến vấn đề phân định. Chắc
là ai ai trong Ðồng Hành đều quen các nguyên tắc “nhận định thần loại” trong sách Linh Thao. Ở đây tôi chỉ nêu bật
hai điểm: cầu nguyện riêng và chia sẻ với những người khác. Muốn được thân mật
với Thiên Chúa trong cầu nguyện thì giả thiết phải thành “đồng bản tính” với
Người một phần nào, nghĩa là cách tự nhiên cảm thấy ý thích của Người, và lấy
làm thoải mái khi thực thi ý Người. “Phân định thần khí” (1Cr 12:10) là một
đoàn sủng mình phải khẩn khoản xin cho được. Khi đề cập đến việc chia sẻ, tôi
muốn nói tìm kiếm ý Chúa cùng với người khác, chứ không một mình. “Người khác” ấy
có thể là người linh hướng, nhưng cũng có thể là một “bạn hữu trong Chúa” đồng
hành tới mục đích chung. Ðối với tôi, thái độ then chốt ở đây là tâm hồn rộng mở
để đón nhận “ơn lời khuyên” của một anh chị em. Thánh I-Nhã là một người
“chuyên môn chia sẻ”. Ngài khởi sự bằng cách chia sẻ kinh nghiệm thiêng liêng với
người khác, rồi kiếm người bạn bè cùng bước với nhau trên đường chia sẻ ấy.
Phương pháp đặc thù của ngài là bày tỏ lương tâm với cha linh hướng hay bề trên,
nhờ đó mình được dẫn dắt một cách hữu hiệu hơn trên đường tìm ý Chúa. Có lẽ nền
tảng thần học của điều này là Thiên Chúa vốn là sự chia sẻ tuyệt đối: Mỗi Ngôi
Vị mở ra và tự chia sẻ mình hoàn toàn với hai Ngôi Vị khác, khiến Ba Ngôi hiệp
thông với nhau cách tuyệt đối. Vậy, chúng ta càng trở nên giống như Thiên Chúa
thì càng biết rõ ý Người. Trong lịch sử, kế hoạch cứu độ cũng mở ra cho con cái
Chúa góp phần tự do, nghĩa là ý Chúa hàm súc ý ta, như thể Chúa để sứ mệnh Người
còn dang dở và cho chúng ta tự do hoàn tất công việc. Trong linh đạo I-Nhã ý niệm magis,
(“hơn”) đóng vai trò quan trọng. Khẩu hiệu “để vinh quang Thiên Chúa hơn,”
chỉ đường ta đi; tôi ý thức những giới hạn của tôi: tôi đành lòng biết mình
không thể làm điều tốt nhất, nhưng có thể làm điều tốt hơn, với khả năng tiến bộ
luôn luôn, vì mãi mãi bất toàn. Trong hoàn cảnh này tôi phải lấy ý tôi mà làm đẹp
lòng Chúa, dù không biết chắc chắn là như vậy. Số phận loài người là chỉ biết ý
Chúa một cách “tạm được”, và như thế là đủ cho tôi dùng sáng kiến mà phụng sự
Chúa.
Một vài tiêu chuẩn khách quan chỉ đường đi như các tín hiệu ở
xa lộ. Tôi chỉ ám chỉ đến hai chuyện: quy phạm chính thống (cái gì nghịch với đức
tin không phải là ý Chúa: xem 1Cr 12:3; 1Gioan 4:3), vì chỉ thị của Giáo Hội
(lúc tôi do dự, vâng lời Giáo Hội chắc sẽ không sai).
Cuối cùng, vấn đề “ý Thiên Chúa” thành vấn đề “quyết định của
tôi”. Hiếm có ai tìm ý Chúa cách thuần túy; thường mang ngầm lý do ích kỷ. Lắm
khi chúng ta sợ trách nhiệm về sự quyết định; dù sao, mỗi khi chúng ta chủ
trương làm theo “ý Chúa,” hoặc có ý thức, hoặc vô ý thức, thật ra chúng ta làm
theo ý mình, chỉ hy vọng ý đó của mình trùng với ý Chúa. Thiết tưởng trước khi
tìm biết ý Chúa, chúng ta phải trung thực phân tích quá trình của những quyết định
của chính mình, động cơ của những hành vi, những sở thích ẩn kín của mình, v.v.
Thiên Chúa dựng nên tôi như một bản vị, tức là một nguồn cội khả dĩ tự do quyết
định, và Người muốn tôi cư xử như vậy. Nếu ai tin Thiên Chúa tạo ra loài người
tự do mà bây giờ lại cấm chúng ta dùng quyền tự do ấy thì có vẻ lộng ngôn. Một
“người thiêng liêng” (spiritual person) là người sẵn sàng chịu trách nhiệm về
hành vi của mình, và khiêm nhượng cậy rằng ý mình cũng là ý Chúa. Tâm trạng này
mang bình an cho linh hồn, đồng thời cần thiết cho đời sống nhân bản và tôn
giáo. Dù tôi có sai lầm trong một dịp cụ thể nào đó, tôi vẫn còn vững lòng quyết
định theo ý Chúa, tùy khả năng của tôi, nghĩa là trong sự tối tăm của đức tin.
Dù hành động tôi sai lầm, tôi vẫn còn đúng đắn, vì tôi theo lương tâm và mở
lòng ra cho Thần Khí sửa chữa – qua những người khác – và dẫn dắt tôi trên đường
Chúa muốn.
Xin kết thúc với một nhận xét hiển nhiên: dẫu lựa chọn điều
gì và theo phương pháp nào, bạn đừng bao giờ quên cái “bậc thang giá trị” là
kim chỉ nam: động cơ tột cùng của hành vi Kitô là tình yêu (xem 1Cr 13: 1-3; Ep
4: 14-16). Ai để tình thương dẫn lối, thì hiếm khi bị lạc đường.
Nguồn: dongten.net
(07.02.2023)
- Vatican News Tiếng Việt giúp tĩnh tâm Mùa Vọng 2023: Nhập thể và hiệp hành ( 11/12/2023)
- Nguyên tắc để quyết định đúng ý Chúa ( 18/10/2023)
- Năm cách để tìm kiếm ân sủng trong cuộc sống của bạn ( 10/09/2023)
- Những yếu tố của một buổi cầu nguyện theo phong cách Taizé ( 16/07/2023)
- Những phương thuốc của Đức Hồng Y Sarah dành cho “cơn khủng hoảng tinh thần” của thế giới ( 04/07/2023)
- Cầu nguyện: Cuộc chiến đấu để tin vào tình yêu ( 23/05/2023)
- Liệu sự phân tâm chia trí trong khi cầu nguyện có một ý nghĩa nhất định không? ( 18/05/2023)
- 5 cách để nhận ra Thiên Chúa đang hành động trong cuộc đời chúng ta ( 16/05/2023)
- Mười cách mừng kính tháng năm của Đức Mẹ ( 06/05/2023)
- Thứ Sáu Tuần Thánh (07.04.2023) – Suy niệm Đàng thánh giá với Đức Thánh Cha Phanxicô ( 07/04/2023)