TẦM NHÌN GIÁO HỘI HỌC VÀ MỤC VỤ VỀ ĐỘC THÂN LINH MỤC 

Benoit XVI, Cardinal Robert Sarah, Des Profondeurs de nos coeurs, Fayard 2020. 

Từ đáy lòng chúng tôi (Des profondeurs de nos coeurs) là tựa đề một quyển sách với nội dung chính là bài viết của Đức Bênêđictô XVI, “Chức linh mục Công giáo”, và bài của Đức hồng y Robert Sarah, “Yêu đến cùng: tầm nhìn giáo hội học và mục vụ về độc thân linh mục”. Cả hai bài đều đào sâu suy tư Kinh Thánh, thần học, mục vụ để bảo vệ sự độc thân linh mục. Sau khi quyển sách được xuất bản, Đức hồng y Robert Sarah đã dành cho tờ National Catholic Register một cuộc phỏng vấn, qua đó ngài trình bày những điểm chính yếu trong quan điểm của Giáo Hội Công giáo về vấn đề độc thân linh mục. Sau đây là toàn văn bài phỏng vấn.

+ Gm. Phêrô Nguyễn Văn Khảm 


ĐỨC HỒNG Y ROBERT SARAH: 
TRẢ LỜI PHỎNG VẤN CỦA NATIONAL CATHOLIC REGISTER 

Kính thưa Đức hồng y, tại sao ngài viết quyển sách này?

Vì chức linh mục Kitô giáo đang bị nguy hiểm chết người, đang trải qua cuộc khủng hoảng lớn! Sự phát hiện một số lớn những lạm dụng tình dục trong hàng giáo sĩ, kể cả nơi các Giám mục, là triệu chứng không cần bàn cãi về vấn đề này. Đức Bênêđictô XVI đã nói về đề tài này rất mạnh. Nhưng rồi những suy tư của ngài bị xuyên tạc và lờ đi. Cũng như ngày nay vẫn có những tính toán bắt ngài phải im tiếng, và đủ thứ thao túng được dựng lên để làm cho người ta không chú tâm tới sứ điệp tiên tri của ngài. Thế nhưng tôi xác tín rằng ngài đã nói với chúng ta điều thiết yếu – điều mà không ai muốn nghe. Ngài đã chỉ cho thấy ở gốc rễ của những lạm dụng trong hàng giáo sĩ là sự sai lầm trong việc đào tạo. Linh mục là người được tách riêng ra để phụng sự Thiên Chúa và Hội Thánh. Linh mục là người được thánh hiến. Toàn bộ đời sống linh mục được tách riêng ra để dành cho Chúa. Nhưng người ta lại muốn tục hóa đời sống linh mục, biến nó thành phàm tục, tầm thường. Họ muốn làm cho linh mục thành một người giống như bất cứ người nào khác. Một vài linh mục được đào tạo theo hướng không đặt Thiên Chúa, kinh nguyện, dâng Thánh Lễ, khao khát tìm kiếm sự thánh thiện, như tâm điểm đời sống mình.

Như Đức Bênêđictô XVI nói: “Tại sao lại có nhiều lạm dụng tình dục trẻ vị thành niên như thế? Phân tích đến cùng thì đó là vì vắng bóng Thiên Chúa. Chỉ nơi đâu Đức tin không còn quyết định hành động của con người thì mới có thể xảy ra những tội ác như thế”.

 

Rõ ràng như Đức hồng y nói, việc đào tạo trên thật thiếu sót. Vậy hậu quả ra sao?

Các linh mục được đào tạo mà không được dạy rằng Thiên Chúa là điểm nâng đỡ duy nhất cho đời sống của họ, cũng không trải nghiệm được rằng đời sống của họ chỉ có ý nghĩa nơi Thiên Chúa và cho Thiên Chúa. Không có Chúa, họ chẳng còn gì khác hơn là quyền lực. Một vài người rơi vào thứ lôgích ma quỷ lạm dụng quyền bính và những tội ác về tình dục. Nếu một linh mục không kinh nghiệm hằng ngày rằng mình chỉ là khí cụ trong tay Thiên Chúa, nếu một linh mục không thường xuyên đặt mình trước nhan Chúa để phụng sự Người với trọn tâm hồn, thì rồi linh mục đó sẽ bị nhiễm độc vì ham muốn quyền lực. Nếu đời sống một linh mục không phải là cuộc đời được thánh hiến, thì linh mục sẽ có nguy cơ lớn rơi vào ảo tưởng và những chia trí bên ngoài.

Ngày nay một số người muốn đi một bước xa hơn theo hướng này. Họ muốn tương đối hóa sự độc thân linh mục. Thật là tai họa! Bởi lẽ sự độc thân là thể hiện hiển nhiên nhất rằng linh mục thuộc về Chúa Kitô và linh mục không còn thuộc về chính mình nữa. Độc thân là dấu chỉ của một đời sống chỉ có ý nghĩa nơi Thiên Chúa và cho Thiên Chúa. Muốn phong chức linh mục cho người đã kết hôn là hàm nhận rằng đời sống linh mục không phải là công việc trọn thời gian, đời sống đó không đòi hỏi sự cho đi hoàn toàn, đời sống đó cho phép người ta tự do để làm những việc khác như kiếm thêm một nghề, và đời sống đó cho người ta có thời giờ tự do để sống đời tư của mình. Nhưng tất cả những điều đó đều sai. Linh mục là linh mục trọn thời gian. Phong chức linh mục trước hết không phải là một cam kết quảng đại, nhưng là sự thánh hiến toàn bộ hữu thể, linh hồn nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô, Đấng đòi hỏi chúng ta phải hoán cải thường xuyên để nên giống Người. Độc thân là dấu chỉ không thể tranh cãi rằng làm linh mục là để cho Thiên Chúa hoàn toàn chiếm hữu mình. Đặt vấn đề về độc thân linh mục sẽ làm trầm trọng hơn cơn khủng hoảng về chức linh mục.

 

Đức Bênêđictô XVI có chia sẻ quan điểm này không?

Chắc chắn, và ngài đã nói với tôi như thế trong nhiều dịp, diện đối diện. Đau khổ lớn nhất của ngài và thử thách đau đớn nhất của Giáo Hội La tinh là tội ác của các linh mục lạm dụng tình dục trẻ vị thành niên, các linh mục vi phạm đức khiết tịnh. Chúng ta phải đọc lại những gì ngài đã viết về đề tài này khi còn là Hồng y, rồi trong triều giáo hoàng của ngài, và gần đây nhất, trong cuốn Từ đáy lòng chúng tôi.

Ngài không ngừng nhấn mạnh tầm quan trọng của độc thân linh mục với toàn thể Hội Thánh. Tôi muốn nhắc lại ở đây lời của ngài: “Nếu chúng ta tách biệt sự độc thân khỏi chức linh mục, chúng ta sẽ không còn thấy đặc tính đoàn sủng của chức linh mục nữa. Chúng ta sẽ chỉ thấy linh mục như một chức vụ mà Giáo Hội cơ cấu cung cấp để đáp ứng sự an ninh và nhu cầu của mình. Nếu chúng ta muốn nhìn chức linh mục như thế…thì Hội Thánh chỉ còn là một tổ chức thuần túy nhân loại”.

Thế nhưng người ta muốn bịt miệng Đức Bênêđictô XVI. Tôi phản kháng mạnh mẽ trước sự vu khống, bạo lực và thô lỗ mà người ta dành cho ngài. Đức Bênêđictô XVI muốn nói với thế giới nhưng người ta tìm cách dập tắt lời của ngài. Tôi biết ngài cương quyết trình bày những gì được viết trong quyển sách này và ngài vui mừng khi thấy quyển sách được xuất bản. Ngài muốn viết và công khai bày tỏ niềm vui của ngài, nhưng người ta lại tìm cách ngăn cản. Tuy nhiên những tính toán đó đều vô hiệu. Tôi không muốn nói nhiều về những tính toán dơ bẩn này, những người có trách nhiệm sẽ phải trả lẽ trước mặt Chúa.

 

Điều gì ẩn sau những chống đối này?

Những người chống đối chức linh mục không muốn đi tới cùng trong cuộc tranh luận. Họ biết những lập luận của họ chỉ dựa trên những sai lầm về mặt lịch sử và những ngộ nhận về thần học. Họ biết rằng độc thân linh mục là cần thiết cho công cuộc Phúc-âm-hóa trong các xứ truyền giáo. Vì thế họ tìm cách tấn công quyển sách. Không chống đối được điều gì trong nội dung bản văn, họ quay ra tấn công bìa sách. Thật tội nghiệp! Họ biến Đức Bênêđictô XVI thành một cụ già. Thế nhưng bạn có đọc những gì ngài viết không? Liệu một người có thể viết những trang sâu sắc như thế mà lại không có sự minh mẫn và tỉnh táo? Một vài người muốn coi chúng tôi là những kẻ ngây thơ. Họ cố thuyết phục chúng tôi rằng chúng tôi đã bị các nhà xuất bản thao túng và lợi dụng. Thế nhưng điều đó hoàn toàn sai. Không có sự hiểu lầm nào ở đây cả. Đơn giản là nhà xuất bản tiếng Pháp đã thực hiện những gì tôi đã bàn với Đức nguyên Giáo hoàng. Tôi muốn bày tỏ lời cảm ơn đối với các nhà xuất bản, cách riêng nhà xuất bản tiếng Pháp.

Tất cả những cuộc bút chiến trên chỉ là chiến thuật nhằm lôi người ta khỏi điều chính yếu: nội dung của quyển sách.

 

Về thời điểm phát hành sách ngay trước ngày 12 tháng 02, là ngày dự định công bố Tông huấn hậu Thượng hội đồng giám mục về Amazon – có thể chấp nhận đề nghị của các nghị phụ về việc phong chức linh mục cho những người đã kết hôn ở vùng Amazon, Đức hồng y có nghĩ là gây sức ép lên Đức Giáo hoàng Phanxicô?

Tôi đã viết: “Bất cứ ai chống lại Đức Giáo hoàng, người đó ở ngoài Hội Thánh”, nhưng tôi lại bị người ta cho là kẻ chống đối Đức Phanxicô. Kể cả được đặt ở vị trí hàng đầu những người chống đối. Những lời tố cáo này khiến tôi đau lòng và rất buồn. Nhưng lòng tôi thanh thản và tin tưởng rằng Đức Giáo hoàng không để ý tới những hàm ý giả dối đó.

Không đời nào tôi chống đối Đức Giáo hoàng Phanxicô. Những ai cho rằng tôi đang cố gắng gây chia rẽ trong Hội Thánh, họ nói dối và chơi trò ma quỷ. Tôi viết quyển sách này với sự khiêm tốn và hiền thảo để góp phần với Đức Giáo hoàng trong tinh thần hiệp hành. Tôi đố bạn có thể tìm được trong những gì tôi viết có dòng nào, từ nào phê phán chống lại Đức Giáo hoàng!

Tuy nhiên tôi thấy khó chịu. Ở bên Đức, diễn ra một công nghị lạ lùng rõ ràng nhắm tới việc đặt lại vấn đề về sự độc thân linh mục. Tôi muốn kêu to lên mối quan tâm của tôi: Đừng xé rách Hội Thánh! Bằng cách tấn công sự độc thân của các linh mục, các người đang tấn công Hội Thánh và mầu nhiệm Hội Thánh!

Hội Thánh không thuộc về chúng ta; Hội Thánh là quà tặng của Thiên Chúa. Hội Thánh thể hiện mình qua thừa tác vụ của các linh mục, cũng là quà tặng của Thiên Chúa chứ không do con người tạo ra. Mỗi linh mục là hoa trái một ơn gọi, tiếng gọi cá vị và thân tình của chính Thiên Chúa. Đức Bênêđictô XVI giải thích điều đó thật sâu sắc trong quyển sách này. Chúng ta không tự quyết định mình thành linh mục. Chúng ta được Thiên Chúa kêu gọi và Hội Thánh khẳng định tiếng gọi đó. Sự độc thân đảm bảo tiếng gọi đó. Một người chỉ có thể từ bỏ việc xây dựng gia đình và đời sống lứa đôi nếu người đó chắc chắn rằng mình được Thiên Chúa kêu gọi sống sự từ bỏ ấy. Chức linh mục của chúng ta bám vào tiếng gọi của Chúa và lời cầu nguyện của Hội Thánh cho ơn gọi.

Như thế, đặt vấn đề về sự độc thân linh mục là muốn biến Hội Thánh thành một thể chế nhân loại, trong tầm tay và quyền lực của con người. Điều đó có nghĩa là khước từ mầu nhiệm Hội Thánh như quà tặng của Thiên Chúa.

 

Thượng hội đồng về Amazon không đề nghị đặt lại vấn đề về độc thân linh mục cách chung, nhưng chỉ cho phép những trường hợp đặc biệt vì thiếu vắng linh mục. Đức hồng y thấy có thể chấp nhận không?

Việc phong chức cho những người đã kết hôn là sự “tưởng tượng” của các nhà hàn lâm Tây phương tìm cách vi phạm luật độc thân. Tôi muốn khẳng định cách mạnh mẽ rằng người nghèo, người đơn sơ, các Kitô hữu bình dân không đòi chấm dứt luật độc thân! Họ mong ước các linh mục thánh thiện, hoàn toàn hiến thân cho Thiên Chúa và Hội Thánh. Họ nhìn các linh mục độc thân như hình ảnh Chúa Kitô, Hôn phu của Hội Thánh. Tôi muốn khẳng định trong quyển sách này rằng chúng ta phải giúp Đức Giáo hoàng Phanxicô đứng về phía người nghèo và đơn sơ, và từ chối sức ép của những kẻ có quyền lực, những người có phương tiện tài trợ cho những kế hoạch truyền thông. Một vài tổ chức Giáo Hội nắm tiền trong tay và họ cho rằng họ có thể gây sức ép lên Đức Giáo hoàng và các Giám mục. Chúng ta thấy điều đó tại Đức quốc. Một vài người muốn áp đặt dự án của họ lên toàn thể Hội Thánh. Chúng ta hãy cầu nguyện cho Đức Giáo hoàng; chúng ta phải giúp ngài chống lại sức ép của những tổ chức giàu có và quyền lực này. Chúng ta phải giúp ngài bảo vệ đức tin của người đơn sơ, bảo vệ người nghèo ở vùng Amazon chống lại những kẻ muốn khai thác họ bằng cách không cho họ có được các linh mục hiến thân trọn vẹn trong đời sống độc thân. Quyển sách này được viết trước hết là để hỗ trợ Đức Giáo hoàng trong sứ vụ của ngài.

Đàng khác, như Đức Giáo hoàng Phanxicô đã chỉ ra khi kết thúc Thượng hội đồng, vấn đề thực của Amazon không phải là chuyện phong chức cho các phó tế đã kết hôn. Vấn đề chính là Phúc-âm-hóa, loan báo Tin Mừng. Chúng ta đã khước từ việc loan báo đức tin, ơn cứu độ trong Đức Giêsu Kitô. Rất nhiều khi chúng ta chỉ còn là những người làm công tác xã hội và hỗ trợ nhân đạo. Ở vùng Amazon, chúng ta thiếu những giáo dân thực sự thi hành ơn gọi truyền giáo. Chúng ta cần các giáo lý viên. Cho phép tôi nhắc tới một hoàn cảnh mà bản thân tôi có kinh nghiệm. Vào đầu năm 1976, là một linh mục trẻ, tôi tiếp cận với những ngôi làng xa xôi ở Guinea. Một số ngôi làng chỉ được các linh mục đến thăm từ 10 năm trước, vì các thừa sai Âu châu đã bị Sekou Touré trục xuất từ năm 1967. Các giáo lý viên tiếp tục dạy Giáo lý cho trẻ nhỏ và đọc kinh lần hạt hằng ngày. Vào Chúa nhật họ tụ lại để nghe Lời Chúa. Tôi được hồng phúc gặp gỡ những giáo dân giữ đức tin mà không có sự trợ giúp bí tích nào vì thiếu linh mục. Tôi không bao giờ quên niềm vui không tưởng tượng nổi khi tôi dâng lễ cho họ, vì lâu lắm họ không được dự lễ. Tôi tin rằng nếu những người đã kết hôn nay được phong chức linh mục trong mọi ngôi làng, thì cơn khát bí tích Thánh Thể nơi người tín hữu có lẽ sẽ bị dập tắt. Người dân mất đi niềm vui được đón tiếp, nơi linh mục, một Chúa Kitô khác. Vâng, với bản năng đức tin, người nghèo biết rằng một linh mục đã khước từ hôn nhân sẽ trao ban cho họ trọn tình yêu của ngài, như người chồng đối với vợ.

Về việc thiếu vắng linh mục, đây là điều có thật. Nhưng tôi tin rằng Đức Giáo hoàng Phanxicô đúng khi ngài viết: “Nhiều nơi đang trải nghiệm sự khan hiếm ơn gọi linh mục và đời sống thánh hiến. Sự khan hiếm đó thường do việc thiếu nhiệt tình tông đồ nơi các cộng đoàn, kết quả là mất đi sự nhiệt tình và thu hút. Bất cứ nơi đâu có sự sống, nhiệt tâm và ước mong mang Chúa Kitô đến cho người khác, thì các ơn gọi đích thực sẽ xuất hiện” (Niềm vui Phúc Âm, số 107). 


Thế còn những trường hợp được miễn giữ luật độc thân thì sao, chẳng hạn theo nghi thức Công giáo Đông phương hoặc với các địa hạt Anh Giáo?

Theo định nghĩa, luật trừ mang tính tạm thời và là “ngoặc đơn” đối với tình hình chung. Đây là trường hợp các mục tử Anh giáo nay trở về sự hiệp thông trọn vẹn với Công giáo. Nhưng sự thiếu vắng linh mục không phải là luật trừ. Đây là tình trạng thông thường của bất cứ Hội Thánh nào, hoặc non trẻ như vùng Amazon, hoặc đang già cỗi như phương Tây. Lúa chín đầy đồng, thợ gặt thì ít. Việc phong chức cho người đã kết hôn trong các cộng đoàn Kitô hữu non trẻ sẽ ngăn cản việc gầy dựng ơn gọi linh mục độc thân. Luật trừ sẽ trở thành thông thường. Làm suy yếu đi nguyên tắc độc thân, kể cả chỉ giới hạn ở một vùng miền, điều đó sẽ không còn là luật trừ nhưng là sự nứt gãy, một vết thương trong sự chặt chẽ nội tại của chức linh mục. Đàng khác, (vì sự độc thân linh mục mà) phẩm giá và sự vĩ đại của hôn nhân càng được hiểu biết tốt hơn. Như Đức Bênêđictô XVI cho thấy trong quyển sách này, hai tình trạng này (kết hôn và độc thân) không tương hợp với nhau vì cả hai đều đòi hỏi sự trao ban tuyệt đối và trọn vẹn.

Ở Đông phương, một vài Hội Thánh có hàng giáo sĩ kết hôn. Tôi không hề đặt vấn đề về sự thánh thiện cá nhân của các linh mục này. Nhưng một hoàn cảnh như thế chỉ có thể sống được nhờ sự hiện diện đông đảo của các tu sĩ. Hơn nữa, từ quan điểm nhìn chức linh mục như dấu chỉ được ban cho toàn thể Hội Thánh thì có nguy cơ lẫn lộn ở đây. Nếu một linh mục kết hôn, ông có đời sống riêng, đời sống lứa đôi và gia đình. Ông phải dành thời giờ cho vợ con. Ông không thể bày tỏ bằng chính đời sống của mình là ông hoàn toàn và tuyệt đối hiến thân cho Thiên Chúa và Hội Thánh. Thánh Gioan Phaolô II đã nói rất rõ: Hội Thánh muốn được các linh mục của mình yêu thương bằng chính tình yêu Chúa Giêsu yêu thương Hội Thánh, nghĩa là một tình yêu độc hữu, phu thê. Các linh mục cần phải hiểu động lực thần học của việc sống độc thân. Ngài nói: “Không nên nhìn độc thân linh mục chỉ như một lề luật hoặc một điều kiện hoàn toàn bên ngoài phải chấp nhận để được phong chức, nhưng đúng hơn phải nhìn như một giá trị gắn kết sâu xa với việc chịu chức linh mục, qua đó một người được nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô, Mục tử nhân lành và Hôn phu của Hội Thánh” (Pastores dabo vobis, số 50). Đây là điều mà cùng với Đức Bênêđictô XVI, chúng tôi muốn nhắc lại. Nền tảng chân thực của sự độc thân không phải là chuyện pháp lý, kỷ luật hay thực dụng, mà là quy hướng về Thiên Chúa. Về chủ đề này, tôi đề nghị bạn xem lại diễn văn đặc biệt của Đức Bênêđictô XVI cho Curia Rôma ngày 22 tháng 12 năm 2006. Trong mắt của thế giới tục hóa và vô thần, việc độc thân vì Chúa quả là hàm hồ. Độc thân là scandale đối với con người đương đại. Thế nhưng (chính vì thế) độc thân lại chứng tỏ Thiên Chúa là thực tại. Nếu đời sống linh mục không chỉ cho thấy cách cụ thể rằng Thiên Chúa là đủ để làm cho chúng ta hạnh phúc và ban tặng ý nghĩa cho đời sống chúng ta, thì thử hỏi ai sẽ loan báo Thiên Chúa? Hơn bao giờ hết, xã hội ngày nay cần sự độc thân linh mục vì nó cần đến Thiên Chúa. 


Đức hồng y nói sao về quan điểm cho rằng độc thân linh mục là luật mới xuất hiện sau này trong Hội Thánh Công giáo?

Về vấn đề này, chúng ta thường là nạn nhân của sự thiếu hiểu biết về lịch sử cho tường tận. Trong những thế kỷ đầu, Hội Thánh có những linh mục đã kết hôn. Thế nhưng khi được phong chức, họ được yêu cầu phải hoàn toàn kiêng cữ chuyện vợ chồng. Đức Bênêđictô XVI nhắc điều đó rất rõ trong quyển sách này. Mọi người đều biết ngài có sự hiểu biết lịch sử sâu sắc và kiến thức tuyệt vời về truyền thống cổ xưa. Đây là điều chắc chắn và được chứng minh bởi những nghiên cứu lịch sử mới nhất. Không có sự cấm kị trong đòi hỏi này, cũng không vì sợ hãi tính dục, nhưng là khẳng định rằng linh mục là hôn phu của Hội Thánh, cả xác lẫn hồn. Từ quan điểm lịch sử, mọi sự rõ ràng là: từ năm 305, Công đồng Elvira nhắc lại luật “đã đón nhận từ các Tông đồ”, về sự tiết dục của các linh mục. Khi Hội Thánh vừa thoát ra khỏi giai đoạn bị bách hại thì một trong những mối quan tâm đầu tiên là khẳng định rằng các linh mục phải kiêng cữ chuyện vợ chồng. Thật vậy, Công đồng xác định: “Công đồng nhất trí rằng các giám mục, linh mục, phó tế, tức là mọi giáo sĩ phải kiêng cữ chuyện vợ chồng và sinh con; bất cứ ai làm như thế sẽ bị tuyên bố loại ra khỏi hàng giáo sĩ” (Canon 33). Nếu đây là một đòi hỏi mới mẻ thì chắc đã gây ra sự chống đối rộng rãi nơi các linh mục. Tuy nhiên đòi hỏi trên đã được đón nhận nhẹ nhàng bình an. Các Kitô hữu đều biết rằng một linh mục dâng Thánh Lễ, tức là hiện tại hóa hy tế của Chúa Kitô vì phần rỗi thế gian, linh mục phải dâng chính mình – cả xác lẫn hồn - cho Thiên Chúa và toàn thể Hội Thánh. Ngài không còn thuộc về chính mình nữa. Chỉ sau này, vì hiểu sai bản văn nên phương Đông mới thay đổi kỷ luật này, nhưng vẫn không bao giờ khước từ mối liên kết mang tính hữu thể giữa chức linh mục và sự tiết dục. 


Trong quyển sách này, nhiều lần Đức hồng y nói đến sự cần thiết phải sống Phúc Âm cách triệt để. Đức hồng y có nghĩ rằng chúng ta đang thấy sự sa sút nhiệt tình tông đồ, và Hội Thánh mất đi chất muối của mình?

Tôi vui vì bạn đặt câu hỏi này. Chắc chắn đây là khía cạnh quan trọng nhất của quyển sách này, nhưng chẳng ai ghi nhận hoặc phê bình về điều đó cả. Chúng ta bằng lòng với những tranh luận thứ cấp và vô bổ. Tôi cho rằng chúng ta đã bị chế ngự bởi sự tầm thường và nguội lạnh. Chúng ta phải khao khát sự thánh thiện. Đức Bênêđictô XVI, với sự can đảm mang tính tiên tri, dám khẳng định rằng: “Không có sự từ bỏ của cải vật chất thì không thể có chức linh mục. Tiếng gọi bước theo Chúa Giêsu không thể thành hiện thực nếu không có dấu chỉ tự do này và sự khước từ mọi thỏa hiệp”. Như thế, ngài đặt nền móng cho sự canh tân đích thực hàng giáo sĩ. Ngài kêu gọi sự thay đổi tận căn trong đời sống các linh mục khi ngài tiếp tục nói: “Không thể đạt đến ý nghĩa trọn vẹn của sự độc thân nếu chúng ta uốn mình theo của cải và những cách sống quen thuộc ngày nay”. Tôi xác tín rằng đây thực sự là tính triệt để trong tiếng gọi sống thánh thiện, điều đó làm chúng ta khó chịu và không muốn nghe. Quyển sách này gây khó chịu vì Đức nguyên giáo hoàng cống hiến một viễn tượng tiên tri và đòi hỏi cao.

Về phần mình, tôi cố gắng phát triển tiếng gọi này bằng cách nhấn mạnh rằng các linh mục phải tìm ra những cách thế cụ thể để sống các lời khuyên Phúc Âm. Các giám mục phải suy nghĩ về điều này, cho chính mình và cho các linh mục: Chúng ta phải thực sự đặt Thiên Chúa là tâm điểm đời sống chúng ta. Đời sống các linh mục không thể là đời sống theo thế gian. “Không ai có thể làm tôi hai chủ”. Tây phương đang hết hơi. Tây phương đang già cỗi và chờ đợi người trẻ, chờ đợi các linh mục thánh thiện cách triệt để. (“Cardinal Sarah: The Priesthood today is in Mortal Danger”, National Catholic Registerhttps://www.ncregister.com, 10/2/2020.)

Nguồn: giaophanmytho.net