LỄ HANUKKAH CỦA NGƯỜI DO THÁI NÓI GÌ VỚI CHÚNG TA?
Tác giả:
Michael Heekin
Chuyển ngữ:
Phêrô Phạm Văn Trung
Từ: crisismagazine.com
WHĐ (2.1.2021) – Năm 1938, trong những ngày đen tối của
Holocaust – Nạn Diệt Chủng người Do Thái, Đức Giáo Hoàng Piô XI đã tuyên bố với
những người Công giáo — và tất cả các Kitô hữu rằng “Về mặt tâm linh, chúng ta là người Sêmít – Do Thái”. Kitô hữu
và người Do Thái đều là Con cái của Ábraham và phải đoàn kết chống lại sự ác
trên thế giới. Cũng đúng khi các nghiên cứu lịch sử và tôn giáo của người
Do Thái cho thấy cội nguồn của Kitô giáo, và có thể hướng dẫn chúng ta đối phó
với những thách thức mà những người có đức tin phải đối mặt trong thời hiện đại.
Lễ hội Hanukkah bắt đầu vào
lúc hoàng hôn ngày thứ Năm, ngày 10 tháng 12. Lễ hội đó kỷ niệm các sự kiện được
ghi trong sách Macabêô thứ nhất và thứ hai. Mặc dù Hanukkah là một trong
những ngày lễ phổ biến của người Do Thái, nhưng các sách Macabêô không có phiên
bản tiếng Do Thái trong Kinh thánh (hoặc trong hầu hết các kinh thánh Tin
lành). Tuy nhiên, các sách này lại được tìm thấy trong kinh thánh Công
giáo và Chính thống giáo cũng như trong bản Bảy Mươi, một phiên bản tiếng Hy Lạp
ban đầu của Kinh thánh tiếng Do Thái. Có những lý do thú vị cho những điều
kỳ lạ đó, nhưng đó là một câu chuyện khác.
Những người theo đạo Thiên chúa thường coi Hanukkah là “Lễ Giáng sinh của người Do Thái” – một lễ hội đáng yêu bao gồm thắp nến trên giá đèn “menorah”, hát các bài hát truyền thống và trao đổi quà tặng. Trên thực tế, Hanukkah tưởng nhớ một cuộc đấu tranh bi tráng giữa một bên là cuộc kháng chiến vượt trội của người Do Thái đối với các thế lực bên trong và bên ngoài quyết tâm tiêu diệt Do Thái giáo. Đó là một câu chuyện liên quan đến những người theo đạo Thiên Chúa và người Do Thái ngày nay, đặc biệt trong sự thù địch ngày càng tăng của thế giới đối với những người có đức tin và việc thực hành tôn giáo ngày càng giảm ở khắp nơi.
Vào thế kỷ thứ tư trước Công
nguyên, Ítraen phải chịu sự thống trị của Hy Lạp khi Alexander Đại đế đánh bại
người Ba Tư. Hai thế kỷ sau, những người kế vị của Alexander đã tỏ ra
khinh thường Do Thái giáo, và hành động tàn nhẫn để áp đặt nền văn hóa Hy Lạp
“ưu việt” của họ lên Ítraen lạc hậu và lên những niềm tin và luật lệ còn giới hạn
của Ítraen.
Antiochus IV, người tự gọi
mình là “Epiphanes - thần hiển linh",
đã cấm thực hành đạo Do Thái bằng cách áp dụng hình phạt tử hình cho những ai
vi phạm. Hắn đã sát hại thầy thượng tế đương nhiệm và 40.000 người Do Thái
và bán 40.000 người khác làm nô lệ. Hắn đã triệt hạ Đền thờ bằng cách dâng
nó cho thần Dớt, cướp bóc các đố thánh của Đền thờ và hiến tế lợn trên bàn thờ
của Đền thờ. Những bà mẹ đã cắt bao quy đầu cho con trai của họ thì bị hạ
nhục khi bị dẫn đi diễu hành quanh Giêrusalem cùng với những đứa con của họ và
sau đó bị giết chết, cùng với những người còn lại trong gia đình và những người
đã thực hiện phép cắt bì.
Do không chịu nổi ép buộc của
hoàng đế ngoại giáo, hay cộng tác vì lợi ích cá nhân, hay đơn giản là bị hấp dẫn
bởi viễn cảnh tiến bộ xã hội, nhiều người Do Thái đã từ bỏ tôn giáo của tổ tiên
họ và đi theo chủ nghĩa Hy Lạp. Họ lấy tên Hy Lạp và một số người thậm chí
chấp nhận phẫu thuật để thay đổi vết cắt bì của họ. Phần lớn hệ thống phân
cấp tôn giáo cũng đứng về phía người Hy Lạp chống lại những người Do Thái đồng
bào của họ. Tuy nhiên, một trưởng lão cao niên tên là Mattathias đã chống
lại những điều ghê tởm đó. Ông chạy trốn đến xứ sở đồi núi Giuđa cùng với
năm người con trai và những người đồng đạo khác. Từ đó, họ tiến hành một
cuộc chiến tranh du kích đầy cảm hứng chống lại quân Hy Lạp. Những người nổi
dậy đã phải chịu nhiều khó khăn gian khổ, nhưng họ vẫn kiên trì, và khi càng có
nhiều chiến thắng, sức mạnh của họ ngày càng lớn.
Sau khi Mattathias chết, con
trai của ông, Giuđa, trở thành thủ lĩnh của quân du kích. Vì có khả năng
chỉ huy cuộc kháng chiến, nên ông được gọi là "Maccabee", có nghĩa là
"cái búa". Tương tự như vậy, các chiến binh của ông được gọi là
những người Macabê, những cái búa.
Antiochus quyết tâm loại bỏ
những người Macabê một lần và mãi mãi, và gửi một đội quân gồm 65.000 binh sĩ
chống lại lực lượng 10.000 người của Giuđa. Trước khi giao chiến, Giuđa và
quân đội của ông đã hết lòng cầu nguyện cùng Thiên Chúa giải cứu Ítraen. Lời
cầu nguyện của họ đã được đáp lại và những cái búa Macabê đã đánh bại các lực
lượng Hy Lạp siêu đẳng. Mặc dù một số cuộc giao tranh vẫn tiếp diễn,
nhưng trận chiến đó đã giải phóng Ítraen, quốc gia sẽ vẫn duy trì được nền độc
lập của mình cho đến khi bị người La Mã chiếm đóng một thế kỷ sau đó.
Sau khi chiến thắng, những
người Macabê chạy đến Giêrusalem để thanh tẩy Đền thờ sa đọa và dâng nó lại cho
Thiên Chúa. (“Hanukkah” có nghĩa là “dâng hiến” trong tiếng Do Thái.) Theo
truyền tụng, họ tìm thấy nguồn cung cấp dầu thánh hiến nhưng chỉ đủ dùng trong
một ngày để thắp sáng cho giá đèn “menorah”, nhưng điều kỳ diệu là nó vẫn cháy
trong tám ngày cho đến khi dầu mới được bổ sung. Do đó, lễ kỷ niệm
Hanukkah kéo dài tám ngày và giá đèn menorah được sử dụng cho buổi lễ có tám ngọn
nến chính, một ngọn cho mỗi ngày.
Những bài học mà những người
có đức tin ngày nay có thể học được từ cuộc kháng chiến Macabê là gì? Vào
năm 167 TCN, những người Do Thái giáo phải đối mặt với nguy cơ tuyệt chủng do
hoàng đế ngoại giáo của họ và từ nhiều đồng bào Ítraen của họ. Các thầy
thượng tế, các nhà lãnh đạo tôn giáo và dân sự khác, bạn bè và hàng xóm đều
liên minh với hoàng đế. Các cơ sở tôn giáo của Ítraen đã sụp đổ và những
người Do Thái nào vẫn trung thành thì phải đối mặt với sự bách hại và chết
chóc. Nhưng những người Macabê không bao giờ từ bỏ hy vọng vào sự quan phòng
của Thiên Chúa và kiên trì bảo vệ đức tin yêu quý của mình. Không sợ hãi
và tuyệt vọng, họ đã đánh bại sự ác vốn có ý định phá hủy đức tin và di sản của
họ bất kể mọi khó khăn.
Người dân Ba Lan phải đối mặt
với một thách thức tương tự trong thế kỷ hai mươi. Giống như những người
cai trị Israel ăn theo quyền lực Hy Lạp, những người độc tôn cai trị Ba Lan đã
sử dụng khủng bố và sợ hãi để duy trì sự kiểm soát và phá hủy đức tin Công giáo
sâu sắc của người dân. Tuy nhiên, vào năm 1979, trong lần đầu tiên trở về
quê hương với tư cách là Giáo Hoàng, Đức Gioan Phaolô II đã truyền cảm hứng cho
người dân Ba Lan khi Ngài nêu đích danh sự ác của chế độ độc tôn toàn trị lúc bấy
giờ. Ngài thách thức mọi người bằng những lời sau:
Tôi xin các bạn — đừng bao giờ,
đừng bao giờ từ bỏ hy vọng, đừng bao giờ nghi ngờ, đừng bao giờ mệt mỏi và đừng
bao giờ nản chí. Đừng sợ.