Bài nghiên huấn tín lý của Ủy ban Giáo dân (01/2018)
Con đường tình yêu mở rộng cho tất cả mọi người
Lời mở
Công đồng Vaticanô II, trong Hiến chế Mục vụ
“Vui mừng và Hy vọng” đã xác định rằng: “Đối với những ai tin vào tình yêu
Thiên Chúa, Người cho họ xác tín rằng con
đường tình yêu mở rộng cho tất cả mọi người”[1], vì
Thiên Chúa đã đặt tình yêu vào trong lòng con người như một dấu hiệu đặc biệt
khi dựng nên họ theo hình ảnh của Ngài và giống như Ngài.
1.1. Một
Trời yêu thương
Từ ngàn xưa cho đến ngày nay, dân tộc Việt Nam
chúng ta tin vào Trời. Niềm tin ấy được diễn tả trong đời sống hằng ngày, trong
những nghi lễ của vua chúa trên Tế đàn Nam Giao cũng như trong các lễ hội dân
gian, được lưu trữ trong kho tàng văn hoá dân tộc qua những câu ca dao, tục ngữ,
truyện cổ tích về bánh chưng, bánh giầy…
Trời không phải chỉ là khoảng không gian xanh
thẳm trên đầu nhưng là một Đấng thiêng liêng, thấu
suốt mọi sự (Trời xanh có mắt), quyền
phép vô song, tạo dựng nên vạn vật (Trời
sinh, Trời dưỡng; Con chim nó hót trên cành, Nếu Trời không có, có mình làm
sao, Con chim nó hót trên cao, Nếu Trời không có, làm sao có mình?), nhìn
thấu mọi sự và soi thấu lòng dạ khôn dò của con người (Trời nào có phụ ai đâu, Hay làm thì giầu, có chí thì nên). Vì thế,
người ta cầu Trời ban cho mình những thứ cần thiết (Lạy Trời mưa xuống, Lấy nước tôi uống, Lấy ruộng tôi cày, Lấy đầy bát
cơm, Lấy rơm đun bếp…). Trời là gương mẫu cho người ta noi theo, tạo thành
một nền luân lý gọi là “đạo Trời” để con người tuân giữ (Dù ai nói ngược, nói xuôi, Ta đây vẫn giữ đạo Trời khăng khăng). Tất
cả đều diễn tả tình yêu thương của Trời đối với muôn loài.
Khi đạo Công giáo được các thừa sai dòng Tên
chính thức truyền vào Việt Nam trong khoảng năm 1615-1665, các ngài đã dạy cho
dân tộc Việt Nam về đạo Trời đó, nhất là trong cuốn giáo lý Phép Giảng Tám Ngày của linh mục Đắc Lộ
(Alexandre de Rhodes). Trong cuốn sách đầu tiên được in bằng chữ quốc ngữ này,
cha Đắc Lộ gọi Trời là Đức Chúa Trời[2] . Nhiều bản kinh chúng ta vẫn còn đang giữ tên gọi đó như kinh Mười Điều
Răn, kinh Cám Ơn, kinh Tin Kính của các Tông đồ…
Trong dòng lịch sử dân tộc, người Việt Nam chịu
ảnh hưởng nặng nề bởi nền văn học Trung Hoa. Đạo Trời của người Việt có một số
nét tương đồng với đạo Khổng hay Nho giáo của người Tàu như “Thiên bất dung gian, Thiên thời, địa lợi,
nhân hoà”. Từ sau Công đồng Kẻ Sở năm 1924, nhiều sách vở Công giáo bắt đầu
dùng từ Thiên Chúa, viết tắt bởi từ “Thiên địa chân Chúa”, có nghĩa là vị Chúa
đích thực của trời đất, thay cho từ Đức Chúa Trời[3].
Thật ra khi cảm nghiệm được tình yêu của Chúa
Trời dành cho con người và vạn vật, người Việt dễ dàng đón nhận niềm tin của
người Công giáo dành cho Thiên Chúa. Điều này đã được nhiều học giả ghi nhận: “Xưa kia chỉ biết kêu trời. Mà nay đã biết gọi
Trời là Cha. Trần gian chẳng phải là nhà. Đi về vĩnh cửu gặp Cha trên Trời”[4].
1.2. Tình
yêu ở đây là gì ?
“Thiên
Chúa là tình yêu” (1Ga 4, 8.16), nghĩa là bản thể của Thiên Chúa là tình yêu.
Vì con người được tạo dựng theo hình ảnh Thiên
Chúa, như họa ảnh của Ngài, nên tình yêu được đưa vào trong bản tính của con
người, và tình yêu trong con người không chỉ
còn là những cảm xúc dù mãnh liệt và có trách nhiệm[5] . Tình yêu
nơi Kitô hữu còn là “một nhân đức, nghĩa
là một năng lực được thủ đắc bằng huấn luyện”[6] , vì thế
chúng ta mới nói đến đức tin-đức cậy-đức mến.
Sau hết, tình yêu còn là
ân huệ cao quý hơn cả và tồn tại mãi mãi, như thánh Phaolô đã giải thích cho
chúng ta: "Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả,
chịu đựng tất cả. Đức mến không bao giờ mất được. Hiện nay đức tin, đức cậy, đức
mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến" (1Cr
13,7-8.13).
Tình yêu đó là chính Chúa Thánh Thần được Chúa Giêsu ban cho ta khi thổi Thần Khí của
Người trên chúng ta. Đó cũng là “tình yêu của Cha Trên Trời đổ vào lòng chúng
ta nhờ Thánh Thần Ngài ban cho ta” (x. Rm 5,5) để hướng dẫn chúng ta như những
người con tự do của Thiên Chúa, chứ không phải là những nô lệ sợ hãi, mà dân Do
Thái xưa kia đã cảm nhận, và để chúng ta có thể nói lên hai tiếng "Abba,
Cha ơi!" đối với Thiên Chúa như Thánh Phao lô nhắc nhở (x. Rm 8,14-17).
1.3. Con
đường tình yêu
Con đường tình yêu đó cũng là chính Đức Giêsu
thực hiện cho mỗi người chúng ta khi mời gọi chúng ta bước theo Người “anh em
hãy theo Thầy”, vì Người chính là con đường dẫn đến sự thật giải thoát và sự sống
vĩnh hằng (x. Ga 14,6). Người thúc giục ta: "Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ,
làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, và Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo
họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em" (Mt 28,19-20).
Vì thế, tình yêu của Ba Ngôi vừa là thực tại để
chúng ta tôn thờ từng giây phút trong đời sống, đồng thời là một nhân đức để
chúng ta luyện tập theo gương tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa.
2. Những đặc tính của tình yêu Ba Ngôi
Chúng ta sẽ thấy ba đặc tính kỳ diệu trong tình
yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi mà không một tôn giáo nào khác có thể dạy chúng ta
như Kitô giáo. Đó là tình yêu sáng tạo của Chúa Cha, tình yêu cứu độ của Chúa
Con và tình yêu thần thánh hoá của Chúa Thánh Thần.
2.1. Tình yêu sáng tạo của Chúa Cha
Tình yêu chân thật không bao giờ ích kỷ, đóng
kín nơi mình, tự thoả mãn với mình, nhưng luôn luôn hướng về đối tượng mình yêu
để chia sẻ tất cả những gì mình có. Đó là tình yêu của Chúa Cha. Từ tình yêu đó,
Chúa Con đã sinh ra. Cũng nhờ tình yêu đó mà muôn loài muôn vật được tạo thành.
Chúng ta thấy muôn loài đều phản ánh tình yêu trong sáng và tốt lành của Cha
Trên Trời qua màu sắc của từng bông hoa, cánh bướm, đặc biệt là vẻ đẹp nơi mỗi
con người. Chúng biểu lộ đặc tính chân thiện mỹ, hạnh phúc, bình an, niềm vui của
tình yêu sáng tạo này.
Vì thế, chúng ta đang được mời gọi nhìn lại tình
yêu của chính mình để xét xem tình yêu đó có thúc đẩy ta chia sẻ những gì mình
có cho người khác không, nhất là cho những người nghèo khổ, dốt nát, yếu hèn, bệnh
tật? Tình yêu của chúng ta có mang lại niềm vui, hạnh phúc và bình an cho họ không,
hay lại khai thác, bóc lột, làm cho họ khốn khổ hơn khi chưa yêu ta? Tình yêu của
ta có mang đặc tính chân thiện mỹ không hay nó giả dối, ác độc, xấu xa?
2.2. Tình yêu cứu độ của Chúa Con
Đặc tính cứu độ đã được diễn tả bằng những hành
động cụ thể như Đức Giêsu đã làm trong cuộc đời trần thế của Người. Những hành
động đó nhắc nhở rằng ta không được yêu chỉ bằng lời lẽ ngoài môi miệng, nhưng
bằng những hành động tích cực thông thường trong đời sống[7] . Đức thánh
Giáo hoàng Gioan XXIII đã gửi chúng ta lời nhắn nhủ rằng: “Được khích lệ từ lòng
bác ái của Đức Kitô, người Kitô hữu chúng ta cảm thấy sự thôi thúc phải yêu thương
anh em đồng loại. Người đó xem nhu cầu, nỗi đau và niềm vui của tha nhân như của
chính mình. Các hoạt động trong mọi lĩnh vực của người tín hữu ấy luôn mang tính
nối kết vững chắc với tha nhân. Mỗi hành động của họ đều năng động, rộng lượng
và ân cần. Vì "đức mến thì nhẫn nhục,
hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất
chính, không tìm tư lợi, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác,
nhưng vui khi thấy điều chân thật"[8] .
Tình yêu cứu độ của Ngôi Con luôn mời gọi
chúng ta dám hy sinh cho đến cùng như Chúa Giêsu đã chết trên thập giá. Chúng
ta cảm nghiệm được sự hy sinh ấy của vạn vật trong từng bữa ăn mỗi ngày, cảm
nghiệm được sự hy sinh ấy nơi cha mẹ hy sinh cho con cái, như người tình dám chết
cho người mình yêu, như người chiến sĩ hy sinh mạng sống cho đất nước. Nếu tình
yêu của ta không mang đặc tính cụ thể và hy sinh thì nó cũng không có tính cách
cứu độ muôn loài của Chúa Con.
2.3. Tình yêu thần thánh hoá của Chúa Thánh Thần
Thánh hoá có nghĩa là hoá thành thánh như
Thiên Chúa là đấng thánh, thần hoá có nghĩa là biến thành thần linh như Thiên
Chúa. Vì thế, tình yêu thần thánh hoá của Chúa Thánh Thần luôn mời gọi chúng ta
tôn trọng, nâng cao đối tượng mình yêu để giúp họ trở thành thần thánh, thành
con cái Thiên Chúa như chúng ta, chứ không phải làm nhục, hạ thấp họ thành vật
sở hữu của mình. Rất nhiều lần, do những tham vọng và dục vọng thúc đẩy, chúng
ta đã hạ thấp, làm nhục đối tượng mình yêu, thậm chí biến người yêu thành phương
tiện giải trí cho tham vọng và dục vọng hoặc bắt người yêu phải hành động như
những con rối. Chúa Thánh Thần mời gọi chúng ta phải thay đổi thái độ ấy.
Lời kết
Chúng ta được mời gọi nhìn lại tình yêu của mình xem có mang những đặc tính sáng tạo, cứu độ và thần thánh hoá của Ba Ngôi không. Nếu chúng ta thể hiện những đặc tính ấy trong cuộc sống hằng ngày thì hi vọng những anh em lương dân sẽ nhận ra rằng chỉ có Thiên Chúa Ba Ngôi mà người Công giáo tuyên xưng mới có thể thay đổi triệt để đời sống con người và xã hội của họ. Lúc đó họ mới dễ dàng tin theo Chúa Giêsu.
Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Sơn
- Diễn từ của Đức Thánh Cha dành cho các tham dự viên Đại hội toàn thể của Bộ giáo dân, gia đình và sự sống năm 2023 ( 23/04/2023)
- Người giáo dân đồng trách nhiệm trong sứ vụ của Giáo hội ( 09/04/2023)
- Đào tạo giáo dân: Hướng tới một sự đồng trách nhiệm hiệu quả ( 10/03/2023)
- Tản mạn những trải nghiệm trong ngày tham dự hội nghị của Bộ Giáo dân, Gia đình và Sự sống (16-18.02.2023) ( 02/03/2023)
- Diễn từ của Đức Thánh Cha Phanxicô dành cho tham dự viên Hội nghị quốc tế về giáo dân ( 19/02/2023)
- Vì một Giáo hội trong đó giáo dân và mục tử sống một « tình huynh đệ đích thực » ( 19/02/2023)
- Đức TGM Giuse Nguyễn Năng: Kitô hữu phải là men Tin mừng cho thế giới ( 18/01/2023)
- Làm sao để cộng đồng Kitô giáo thành một đối tác khả tín trong hành trình đối thoại xã hội, chữa lành, hòa giải và liên kết? ( 08/12/2022)
- Xây dựng Hội thánh địa phương ( 24/09/2022)
- Giáo dân trở nên chủ thể tích cực loan báo Tin Mừng ( 24/08/2022)