Ủy ban Giáo dân: Bài huấn luyện số 14
PHẦN TU ĐỨC
ĐỜI SỐNG NGƯỜI MÔN
ĐỆ: BIẾN ĐỔI TRONG THÁNH THẦN
Thánh Thần hiện xuống
và khai sinh Giáo hội tại nhà Tiệc ly, ngày lễ Ngũ tuần (Cv 2,1-4). Đây không
chỉ là một biến cố lịch sử, nhưng còn là mầu nhiệm Giáo hội sống động trong
dòng thời gian. Nhà Tiệc ly không chỉ là nơi Giáo hội được khai sinh, nhưng còn
là nơi diễn tả sống động cung cách hiện diện và phục vụ của Giáo hội. Trong thực
tế, Giáo hội vẫn luôn trung thành với mầu nhiệm khai sinh chính mình, chuyên cần
cầu nguyện và đón nhận Thánh Thần, nhờ đó được biến đổi và được hướng dẫn phục
vụ sứ mạng của Đức Giêsu Kitô (Cv 2,36-42). Chúng ta hãy nhìn ngắm đôi nét chân
dung thánh Phê-rô qua hành trình được biến đổi trong Thánh Thần, để chớ gì, từng
thành viên Hội đồng mục vụ giáo xứ chúng ta cũng được biến đổi để thể hiện sống
động cung cách hiện diện và hành xử của Giáo hội nơi cộng đoàn giáo xứ chúng
ta.
Đáp lời mời gọi của Đức
Giêsu sau mẻ cá lạ: “Đừng sợ! Từ nay anh sẽ là người thu phục người ta.”
(Lc 5, 1-11), thánh Phê-rô bỏ lại mọi sự và bước theo Đức Giêsu. Ngài chân
thành và quảng đại, nhưng cũng đầy yếu đuối và ảo tưởng về bản thân; ngài yêu mến
Đức Giêsu, nhưng lại tự phụ cậy vào sức mình. Trong bữa tiệc ly, ngài đã mạnh mẽ
khẳng định: “Dầu tất cả có vấp ngã vì Thầy đi nữa, thì con đây cũng chẳng
bao giờ vấp ngã”, “Dầu có phải chết với Thầy, con cũng không chối Thầy”
(Mt 26,33. 35). Nhưng đêm ấy, như các đồng bạn, thánh nhân ngủ mê mệt: “Thế
ra anh em không thể thức với Thầy một giờ sao?”; trong dinh thượng tế,
thánh nhân đã ba lần nhát đảm chối không biết Đức Giêsu (Mt 26,70.72.74). Sực
nhớ lời Thầy đã nói: “Gà chưa kịp gáy thì anh đã chối Thầy ba lần”,
thánh nhân ra ngoài khóc lóc thảm thiết. Nước mắt của phận người mong manh, của
tình yêu không tròn khi chưa biết mình-biết Chúa.
Trong Thánh Thần,
thánh Phê-rô trở nên mạnh mẽ, không phải theo cung cách thế gian, nhưng theo
cung cách của Thầy Giêsu, đó là cậy dựa và tùy thuộc vào Thiên Chúa, để sống trọn
tiếng gọi Đức Giêsu dành cho ngài: “Hãy theo Thầy” (Ga 21,19). Ngài trở
nên can đảm lạ thường khi loan báo mầu nhiệm Đức Giêsu Kitô (Cv 2,22-24.36).
Trước Thượng hội đồng, ngài khôn ngoan làm chứng về Đấng Cứu Độ: “Ngoài Người
ra, không ai đem lại ơn cứu độ, vì dưới gầm trời này, không có một danh nào
khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào danh đó mà được cứu độ”
(Cv 4,12). Ngài khiến Thượng hội đồng kinh ngạc: “Họ ngạc nhiên khi thấy ông
Phêrô và ông Gioan mạnh dạn, và biết rằng hai ông là những người không có chữ
nghĩa, lại thuộc giới bình dân” (Cv 4,13). Ngài không còn sợ hãi trước gian
nan thách đố, trái lại còn vui mừng khi được chịu như vậy vì Đức Kitô: “Các
Tông Đồ ra khỏi Thượng Hồi Đồng, lòng hân hoan bởi được coi là xứng đang chịu
khổ nhục vì danh Đức Giêsu” (Cv 4,41). Trong Thánh Thần, ngài nâng đỡ và chữa
lành người đau yếu, sửa dạy người sai đường lạc lối và củng cố cộng đoàn (Cv
5,1-11; 15-16).
Thánh Thần ngự đến vì
cộng đoàn môn đệ Đức Giêsu: “Thầy ra đi thì có lợi cho anh em. Thật vậy, nếu
Thầy không ra đi, Đấng Bảo Trợ sẽ không đến với anh em; nhưng nếu Thầy đi, Thầy
sẽ sai Đấng ấy đến với anh em.” (Ga 16,7). Thánh Thần biến đổi chúng ta,
liên kết chúng ta, giúp chúng ta thực thi vai trò thành viên Hội đồng mục vụ
giáo xứ không chỉ bằng phương thế tự nhiên nhưng còn bằng phương thế siêu
nhiên, bằng lời cầu nguyện và ân huệ Thánh Thần trao ban: “Chúng ta không biết
cầu nguyện thế nào cho phải, nhưng chính Thần Khí cầu thay nguyện giúp chúng
ta, bằng chính những rên siết khôn tả” (Rm 8,26).
Hồi tâm.
1/ Tôi nhận ra mình thay đổi như thế nào từ khi tham gia phục vụ trong Hội
đồng mục vụ giáo xứ?
2/ Tôi cảm
nghĩ như thế nào về đời sống thiêng liêng? Tôi thường giữ những thực hành
thiêng liêng nào: dự lễ, lần chuỗi, viếng Thánh Thể, đọc Thánh kinh…?
3/Tôi thường làm gì khi gặp khó khăn trong việc phục vụ? Tôi có thường cầu nguyện riêng với Chúa Thánh Thần, có thường “tham vấn” ngài trước những quyết định quan trọng?
Toma Nguyễn Ngọc Tín SJ.
PHẦN QUẢN TRỊ MỤC VỤ
KẺ ẤY MỚI ĐƯỢC...
Đức Giê-su bảo: “Chén
của Thầy, các người sẽ uống; còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì Thầy
không có quyền cho, nhưng Cha Thầy đã chuẩn bị cho ai, thì kẻ ấy mới được”. (Mt 20,23)
Dẫn vào
Thông thường, khi được
sống trong môi trường đức tin vững mạnh, người tín hữu luôn biết chắc chắn mình
đang muốn đi đâu và sẽ đi về đâu. Thậm chí còn biết rõ mình phải đi con đường Đức
Ki-tô Giê-su đã đi, phải sống những gì Chúa đã sống và đã dạy, phải uống “Chén
của Thầy”. Những vị hữu trách trong Giáo hội, địa vị càng cao càng ý thức
nguyên tắc vàng đó, đặc biệt trong việc tuyển chọn những người cộng tác để phục
vụ, để phụng sự Chúa và Giáo hội. Theo đó, quý chức các hội đồng, hội đoàn giáo
xứ cũng rất nên thuộc nằm lòng ý nghĩa của câu Lời Chúa sau đây (và đem vào thực
hành).
Đức Giê-su bảo: “Chén
của Thầy, các người sẽ uống; còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì Thầy
không có quyền cho, nhưng Cha Thầy đã chuẩn bị cho ai, thì kẻ ấy mới được”. (Mt 20,23)
Tuy vậy, phàm sống ở đời,
nếu quá cầu toàn, người ta khó mà tìm được người tài đức như ý. Nghệ thuật chọn
và sử dụng người cộng tác chủ yếu hệ tại chỗ biết dùng sở trường của người được
tuyển dụng vào đúng việc, đúng chỗ, đúng thời điểm; đặc biệt là, chọn và sử dụng
người đầu tiên cho thật đúng.
Minh họa
Một người kia đi thị
sát chuồng ngựa, hỏi người coi ngựa rằng: “Ở chuồng ngựa thì việc gì khó
nhất?”. Người coi ngựa đáp: “Theo tôi, làm hàng rào gỗ cho ngựa đứng là khó nhất!”
Bởi lẽ, nếu ban đầu dùng cây gỗ cong để làm hàng rào, thì lại phải
tìm cây gỗ cong thứ hai để làm tiếp. Và cứ thế. Khi đã dùng hết các cây gỗ cong
rồi, các cây gỗ thẳng chẳng còn chỗ để được dùng nữa. Ngược lại, nếu ban đầu
dùng cây gỗ thẳng để làm hàng rào, thì cây gỗ đi tiếp phải là cây gỗ thẳng
thứ hai. Khi đã dùng hết các cây gỗ thẳng rồi, các cây gỗ cong chẳng còn
chỗ đứng nữa.
Thì ra, đạo lý “vật lấy
theo loại, người chia theo nhóm” dẫn chúng ta đến với nghệ thuật chọn và sử dụng
người. Dùng người sao cho đúng là hết sức quan trọng. Nếu người đầu tiên được
dùng mà sai, thì người xấu sẽ tiến cử người xấu, và kết quả nhất định sẽ
là “Tiểu nhân dụng nhi quân tử thoái”.[1] Nhưng
nếu một người tốt được sử dụng đúng mức, thì những người tốt khác cũng sẽ đến. “Dụng
nhân như dụng mộc” là thế. Chọn thanh gỗ đầu tiên là tối quan trọng cho việc
làm hàng rào. Cần chọn người đứng đầu là bậc chính trực, tài năng như thanh gỗ
thẳng. Các việc tiếp theo sẽ trở nên dễ dàng, vì lúc đó người đứng đầu sẽ thu xếp,
sẽ tìm được những người thích hợp để cùng làm việc với mình; nghĩa là, làm cho
tổ chức.
Dùng người cần cẩn trọng.
Ở một đoàn thể mà tiểu nhân kết bầy, bậc quân tử sẽ không có chỗ đứng; ở một
nơi hội tụ những bậc quân tử, những kẻ tiểu nhân sẽ không dễ kết bè kết đảng. Một
trong những bí quyết thành công của một tổ chức chính là biết sử dụng người tài
đức.
Chén của Thầy, các người
sẽ uống
Một thành tựu đích thực
bao giờ cũng hàm chứa, cũng tiềm ẩn những thách đố phải vượt qua (và phải thực
sự vượt qua mới được gọi là thành tựu vẻ vang).[2] “Chén
của Thầy, các người sẽ uống”[3] không
phải là một chọn lựa tùy tiện mà chính là một điều kiện tất yếu cho tất cả những
ai muốn “chiến thắng vẻ vang”; hay đúng hơn, muốn một thành tựu đích thực.
Muốn vậy, quý chức các
hội đồng, hội đoàn giáo xứ cần suy nghĩ tích cực. Người thành công đích thực là
người biết suy nghĩ tích cực. “Chén của Thầy, các người sẽ uống”[4] là
điều kiện “thiết thực” cho những ai suy nghĩ “tích cực” để thành công “đích thực”.
Đó là những kẻ “Cha Thầy đã chuẩn bị…”.[5] Người
biết suy nghĩ tích cực, luôn hướng đến giá trị cốt lõi, giá trị thật trong tinh
thần lạc quan. Nếu hôm nay chưa thành công, ngày mai có thể sẽ có, và sẽ là
thành tựu đích thực. Thành tựu đó có được từ lối tư duy tích cực của những kẻ
Cha Thầy đã chuẩn bị…. Họ cũng chính là những kẻ “… kẻ ấy mới được”.[6]
Cha Thầy đã chuẩn bị
cho ai, thì kẻ ấy mới được
Không chỉ cố gắng cải
thiện tình trạng thất bại nhờ cố gắng, kiên trì, không bỏ cuộc, “… kẻ ấy mới được”
với suy nghĩ tích cực, tin tưởng vào sự quan phòng của Chúa, sẽ nỗ lực biến
thách đố trong đời thành cơ hội, giúp rèn luyện và phát triển bản thân. Khó
khăn, thách đố chưa phải là thất bại mà chính là dịp dẫn đến thành công, thành
tựu do “… kẻ ấy mới được” biết cộng tác với ân sủng Chúa ban.
Thật ra, đạo lý Nước
Trời kiểu “muốn là người làm đầu thì phải hầu thiên hạ…” là đúng cả trong đạo
ngoài đời. “Dụng nhân như dụng mộc” cũng là thế. Tuy nhiên, noi gương Đức Ki-tô
Giê-su trở nên người tôi tớ phục vụ mọi người…, rồi cương quyết đi
Giê-ru-sa-lem để trải qua Cuộc Thương Khó, chứ không phải để làm vua kiểu thế sự,
các tín hữu – cách riêng các vị mục tử, các quý chức các hội đồng, hội đoàn
giáo xứ… – sẽ không tranh giành nhau vị trí bên tả bên hữu trong Nước
Chúa hôm nay tại thế, và ngay cả ngày mai trên thiên đàng.[7] Bởi
lẽ, “Cha Thầy đã chuẩn bị cho ai, thì kẻ ấy mới được”.[8]
Có chăng, tín hữu
chúng ta hãy nhớ đến bổn phận của người môn đệ, của người làm đầu là phải hầu
thiên hạ và nên tôi tớ phục vụ mọi người.[9] Bởi
đó chính là cách thức để trở nên những kẻ “… kẻ ấy mới được”.[10]
Câu hỏi giúp thảo luận
1.
Là quý chức
hội đồng, hội đoàn giáo xứ, các bạn có bao giờ chủ động uống “Chén của Thầy”?
Trong trường hợp như thế nào?
2.
Nguyên tắc
“Cha Thầy đã chuẩn bị cho ai, thì kẻ ấy mới được…” có làm ảnh hưởng đến cuộc sống
tích cực phục vụ của bạn không? Tại sao?
3.
Quen biết
một người là do “duyên phận”, hiểu được một người là do “kiên trì”, chinh phục
được một người dựa vào trí tuệ và sự bao dung có phải là một phần của “Dụng nhân
như dụng mộc”?
Lm. GTHH
Phần IV: GIÁO DÂN
TRONG CHIẾU KÍCH RAO GIẢNG TIN MỪNG CHO THẾ GIỚI
CÔNG VIỆC TRONG VƯỜN
NHO THẾ GIỚI NGÀY NÀY:
TÔN TRỌNG PHẨM GIÁ
VÀ QUYỀN SỐNG CON NGƯỜI
“Chính anh em là muối
cho đời; nhưng nếu muối mà nhạt đi, thì lấy gì muối nó cho mặn lại? Nó thành vô
dụng, thì chỉ việc quăng ra ngoài cho người ta chà đạp mà thôi.” (Mt 5:13)
Trong vười nho thế giới,
mỗi thời đại đều lộ ra những lãnh vực mà muối Tin Mừng cấp thiết cần phải ướp
cho nó mặn trở lại; và đó là những lãnh vực mà Hội Yha1nh nhất thiết cần phát
hiện ra. Ngày nay hơn bao giờ hết, thế giới đang đứng trước nạn nhân mãn chưa từng
có qua việc gia tăng dân số cấp số nhân, đàng khác mức sống văn minh tiến bộ cộng
với sự tiến bộ vượt bậc của khoa học kỹ thuật càng làm cho con người có khuynh
hướng sống ích kỷ và hưởng thụ; chính các yếu tố này là nguyên nhân làm cho phẩn
giá con người bị coi nhẹ, nhiều lãnh vực của quyền sống bị chà đạp. Đây chính
là tiếng gào kêu gọi Hội Thánh, nhất là qua các Ki-tô hữu giáo dân, mau mắn ướp
cho thế giới được mặn lại, trước nguy cơ nó ngày càng trở nên nhạt hơn.
1/ Tôn trọng
nhân phẩm
Đứng trước thực trạng
thế giới hiện nay, với các biểu hiện đa diện của nó, Hội Thánh đã nhận ra nhiệm
vụ cấp bách mà mình, thông qua vai trò tích cực của các Ki-tô hữu giáo dân, phải
thực hiện để ướp đời cho mặn lại. Tông Huấn Người Ki-tô hữu Giáo Dân đã
mạnh mẽ xác định như sau: “Khám phá và giúp khám phá ra phẩm giá không thể bị
xúc phạm của mọi nhân vị, đó là nhiệm vụ chủ yếu và, theo một nghĩa nào đó, là
nhiệm vụ trung tâm và liên kết công việc phục vụ mà Hội Thánh và Ki-tô hữu giáo
dân được mời gọi để phục vụ gia đình nhân loại ngày nay.” (CFL số 37)
Về mặt học thuyết, Tin
Mừng soi sáng cho ta biết tầm cao trọng vô song của phẩm giá con người; nhân phẩm
vượt lên trên mọi hình thái cuộc sống bên ngoài, cho dầu chúng có những giá trị
của riêng chúng. Con người được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa, đã được cứu
chuộc bằng Máu Chúa Ki-tô, luôn được mời gọi trở về với địa vị cao quí của mình
là làm con Thiên Chúa và là đền thờ Chúa Thánh Thần. Về sự cao trọng của phẩm
giá con người, Tông Huấn đã viết như sau: “Trong các thụ tạo hữu hình, chỉ
có con người là “một ngôi vị, là chủ thể có ý thức và tự do’; do đó, con người
là trung tâm và là đỉnh cao của mọi thụ tạo trên trời dưới đất” (CFL số
37)
Thế nhưng, su thế hiện
nay của thế giới nói chung đang thách thức và đe dọa phẩm giá con người cách
nghiêm trọng về mọi mặt, thậm chí ngay cả chính sự hiện hữu, tức ngay từ mạng sống
của con người. Người ta nhân danh đủ điều, nhất là nhân danh các giá trị vật chất
và ý thức hệ, để phủ nhận việc tôn trọng nhân phẩm; thậm chí đôi khi giáng nó
xuống hàng thứ yếu, sau cả các giá trị vật chất. Như thế tức là người ta có
khuynh hướng đối sử với con người như đối với một đồ vật không hơn không kém,
thậm chí còn tệ hơn; và đó chính là nguồn gốc của cơ man nào là bất công đang xảy
ra trong thế giới loài người hôm nay.
2/ Nhân quyền
Quyền sống của con người
bao gồm nhiều quyền khác nhau như quyền cư trú, quyền lao động, quyền được giáo
dục, quyền đi lại,quyền diễn đạt tư tưởng, quyền tự do tín ngưỡng v.v., nhưng
quan trọng hơn hết là quyền được sống. Ta gọi cách chung những quyền này là
nhân quyền căn bản và phổ quát, vì chúng được dành cho mọi người, bất luận họ mạnh
khỏe hay đau yếu, lành mạnh hay khuyết tật, sang hay hèn, thông minh hay dốt
nát…Hơn nữa các quyền này hiện hữu song song với sự hiện hữu của chính con người,
từ lúc được đầu thai cho tới khi nhắm mắt… Tóm lại, các quyền này nhằm bảo vệ
cho mỗi người được sống và sống cách xứng hợp với nhân phẩm. Tất cả các quyền
phổ quát này phải được mọi người tôn trọng. Tông Huấn Người Ki-tô
hữu Giáo Dân, dựa trên tư tưởng Công Đồng Va-ti-can II (xem GS số 27,
số 40…) đã xác định như sau: “Đó là những quyền tự nhiên, phổ quát và không
thể bị xúc phạm. Bất kỳ ai, dù là cá nhân hay tập thể, dù là người có quyền hay
nhà nước, cũng không thể sửa đổi những luật đó, càng không thể hủy bỏ chúng, vì
những quyền đó bắt nguồn từ chính Thiên Chúa.” (CFL số 38)
Trong thế giới ngày
nay, nhân quyền là một đề tài lớn và đang được cộng đồng quốc tế quan tâm. Tuy
nhiên vì những khác biệt căn bản về văn hóa cũng như về tín ngưỡng, về ý thức hệ
cũng như quyền lợi kinh tế…, mà người ta chưa hoàn toàn thống nhất được với
nhau về ý nghĩa và nội dung của chúng. Hội Thánh về phần mình, vì được Tin Mừng
soi dẫn, đã cống hiến cho thế giới một cái nhìn xác đáng về các quyền này. Gần
đây, điều này đã được diễn đạt cách khúc triết hơn trong tổng luận về ‘Học Thuyết
Xã Hội của Giáo Hội’. Trong số các quyền con người này, thiết tưởng ta nên đặc
biệt nhấn mạnh trên các quyền lợi sau đây:
a/ Tôn trọng mạng
sống
“Để được cả thế giới,
mà phải thiệt mất mạng sống, thì người ta nào có lợi gì” (Mc 8:36)
Hơn bao giờ hết, ngày
nay trên thế giới, thái độ đối với mạng sống con người ngày càng bị giảm sút; mạng
sống con người bị coi thường, thậm chí bị chà đạp và loại bỏ không thương tiếc.
Người ta viện ra đủ lý lẽ để biện minh cho hành động vô tâm và vô nhận này…
nhưng chung qui đều do tính ích kỷ cá nhân hay tập thể mà ra. Hội Thánh không
bao giờ chấp nhận những vi phạm tới mạng sống dưới bất kì hình thức nào, như “giết
người, diệt chủng, phá thai, tự tử hay chọn được chết êm dịu; mọi hình thức xâm
phạm sự toàn vẹn thân thể con người, như loại bỏ một phần cơ thể, tra tấn thể
lý cũng như tinh thần, gây áp lực tâm lý không cần thiết; mọi hình thức xúc phạm
nhân phẩm như sống trong các điều kiện phi nhân, vô cớ giam cầm, lưu đầy, nô lệ,
mãi dâm, buôn người nhất là trẻ em và phụ nữ, các điều kiện lao động quá hạ đẳng,
khi con người bị đối xử như một công cụ thay vì như một nhân vị tự do và trách
nhiệm…” (GS số 37) Những hành vi trên và những điều tương tự chắc chắn
là tội ác: chúng đầu độc xã hội loài người; và chúng hủy hoại những ai đang áp
dụng chúng, còn hơn cả hủy hoại những ai là nạn nhân của chúng. Chung qui,
chúng xúc phạm cách sâu xa tới đấng Hóa Công.
Giáo dân sẽ là những
người tiền phong trong việc bảo vệ mạng sống, nhất là những ai mang trọng trách
làm cha mẹ. Trong lãnh vực này, các khoa học gia, các nhân viên ngành y, các
nhà lập pháp hay các chính trị gia… có một vai trò hết sức quan trọng. Cách
chung các nghị phụ Thượng Hội Đồng đã từng lên tiếng nhắc nhở: “Các Ki-tô hữu
phải làm chủ khoa học, chứ không được làm nô lệ cho nó!”
b/ Cổ vũ tự do
tín ngưỡng
Sự tôn trọng phẩm giá
con người đương nhiên đòi phải nhìn nhận và tôn trọng chiều kích tâm linh của mỗi
người, vì… “tự do lương tâm và tự do tôn giáo là một trong những quyền có
giá trị cao quí nhất trong đời sống của từng cá nhân, cũng như đòi hỏi sâu xa của
các tập thể con người. Đây là một quyền không thể thiếu để bảo đảm thiện ích của
từng con người và toàn xã hội.” (CFL số 39)
Ki-tô hữu chúng ta nại
tới quyền tự do tín ngưỡng để sống và làm chứng cho Tin Mừng ở những nơi chúng
ta sinh sống và làm việc. Nhưng chúng ta cũng không quên tôn trọng các tôn giáo
khác, cũng như quyền tự do tín ngưỡng của những con người và dân tộc khác với
chúng ta. Chúng ta kêu gọi tự do tôn giáo phải được tôn trọng, nhất là trong
các thể chế có khuynh hướng lạm dụng hay cấm đoán, hoặc hạn chế quyền căn bản
này. Chúng ta đồng thời cũng cổ súy việc chung sống và đối thoại, nhất là đối
thoại liên tôn để, một khi quyền tự do tín ngưỡng và tôn giáo được thực thi
cách chân chính, đời sống con người và xã hội nhân loại sẽ được thăng hoa cách
bền vững.
3/ Vai trò của
gia đình và giáo dục
Nhân phẩm và các quyền
con người đã được đấng Tạo Hóa khắc ghi sâu đậm trong tâm khảm mỗi người; tuy
nhiên, do thiếu thốn về hiểu biết và nhận thức, chúng chưa thật sự được nhìn nhận
và tôn trọng ngay trong nhiều xã hội và dân nước hiện nay. Dưới tác động của
ánh sáng Tin Mừng, nhiều dân nước thấm nhuần tinh thần Tin Mừng đã dần gây ảnh
hưởng trên cộng đồng nhân loại, và tạo được một nhận thức nào đó trước các quyền
cơ bản của con người. Chúng ta vui mừng vì nhiều tổ chức lớn của thế giới, điển
hình như Liên Hợp Quốc, đã được thành lập trên cơ sở quyền con người. Su thế của
thế giới là cam kết cùng nhau phát huy và bảo vệ nhân quyền trong các quốc gia thành
viên của mình; tuy nhiên, con đường còn gặp nhiều chông gai, vì nhận thức còn gặp
nhiều trở ngại vì thiếu nhận thức nơi nhiều thành viên. Ki-tô hữu chúng ta mơ ước
sẽ sớm có được nhiều chính quyền quan tâm tới việc dạy dỗ và vun trồng các quyền
con người nơi công dân mình, đồng thời thiết lập những chính sách phù hợp, hầu
phát huy nó cách cụ thể trong đời sống xã hội
Tuy nhiên để làm tốt
việc này, môi trường giáo dục và đào tạo tốt nhất để các quyền con người được
phát huy tối ưu lại chính là gia đình. Gia đình chính là tế bào cơ bản của mọi
xã hội. Đó là cái nôi của cuộc sống và tình yêu, nơi mà từng cá thể được ‘sinh
ra’ và ‘lớn lên’ (xem CFL số 40). Chính tại nơi đây mà con người nhận biết các
giá trị đích thực của mình và gìn giữ chúng. Điều này càng đúng hơn nhất là tại
những nơi nào và khi nào phẩm giá con người bị đe dọa và bị chà đạp cách nghiêm
trọng. Vì lẽ đó, các gia đình Công Giáo cần phải để cho ánh sáng Tin Mừng soi
chiếu, hầu tạo cho việc giáo dục con cái phát huy được các phẩn giá cao đẹp của
con người toàn diện - vừa trở thành công dân tích cực của thế giới trần gian, lại
vừa là con cái cao đẹp của Nước Cha trên trời.
Và như thế, vai trò của
người Ki-tô hữu Giáo Dân là không thể chối cãi; vì nhờ họ, muối Tin Mừng mới ướp
mặn lại được thế giới hôm nay, sao cho nhân phẩm và các quyền con người được
tôi trong.
Câu hỏi gợi ý:
- Bạn có biết các quyền cơ bản của con người
theo như Hiến Chương Liên Hợp Quốc đề ra không, và điển hình là những quyền
gì?
- Làm cách nào bạn phát huy những quyền này
trong gia đình mình? tỷ dụ như quyền ‘tôn trọng phát biểu ý kiến riêng’.
Gioan Nguyễn Văn Ty
SBD
PHẦN MỤC VỤ: VĂN HOÁ CHỮ VIẾT
Lời mở
Sống trong thời đại
tin học, nhiều người ít quan tâm đến chữ viết tay và chỉ cần gõ trên bàn phím của
chiếc điện thoại hay máy vi tính là có thể gửi thư cho nhau rồi[11],
hoặc chỉ cần ra lệnh cho máy in bàn là người ta có một văn bản đẹp với đủ loại
kiểu dáng chữ in. Hơn nữa, vì cuộc sống vội vã, nên những gì cần viết tay, người
ta thường viết rất nhanh, đường nét không chuẩn, dấu chữ đặt sai vị trí, nhưng
vẫn có thể đọc được vì đã quen với chữ Việt và tiếng mẹ đẻ của mình. Trầm trọng
hơn cả là người ta coi thường văn phạm trong những văn bản trên sách báo, truyền
hình, dùng những từ thông tục và thường đánh dấu các từ không chính xác theo
ngôn ngữ học. Quả thật nhiều người Việt hiện nay ít quan tâm đến văn hoá chữ viết!
Nhưng người Công giáo chúng ta lại có trách nhiệm lớn đối với chữ Việt vì tổ
tiên chúng ta đã sáng tạo ra thứ chữ này.
1. Các em học sinh
lớp 1 học viết tiếng Việt như thế nào?
Ngay từ bài đầu tiên của
sách Tiếng Việt lớp 1, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã yêu cầu các thầy cô dạy các em
học sinh viết chữ với những nét chính, nét phụ theo các đường căn bản như đường
nền, đường chữ hoa, đường chữ thường, đường trên, đường dưới, phân biệt chữ in và
chữ viết tay[12].
Các em học khởi đầu với
những từ có 1 nguyên âm như: bé bè bẻ bẽ bẹ (Bài 3), đến 2 âm
như: mía, bìa, hoặc 3 âm như: chiều, chuối, bưởi, diều, rượu (Bài
35-42), rồi đến các vần có âm tiết cuối với 1 nguyên âm như bàn, sàn (Bài
44), đến 2 nguyên âm như điện, yến, chuồn chuồn (Bài
50) hoặc hai âm tiết cuối như: võng, luống, trường (Bài 56).
Những bài sau cùng dành cho các vần khó như hoa, hoà, xoè, khoẻ (Bài
91), hoặc thoại, xoay (Bài 92), hoài, hoàng, hoằng (Bài
94), hoạt, choắt (Bài 96), hoặc huệ, huý (Bài
98), hay thuở, khuya (Bài 99).
Chắc chắn vào tuổi 6-7
các em chưa thể phân biệt được các chữ i, o, u trong một số vần
lúc này là nguyên âm, lúc khác là bán phụ âm theo khoa ngôn ngữ học hiện đại.
Nhưng các bài dạy trong giáo trình Tiếng Việt lớp 1 là hoàn
toàn chính xác, dù các em học theo phương pháp của Bộ Giáo dục hay theo phương
pháp Công nghệ Giáo dục của giáo sư Hồ Ngọc Đại[13].
2. Người lớn chúng
ta hiện nay đánh dấu ra sao?
Dù Việt Nam chúng ta
đã có Viện Ngôn ngữ học, với những cuốn từ điển Tiếng Việt được coi như quy chuẩn
cho việc sử dụng từ ngữ và viết chữ. Thí dụ như Từ điển Tiếng Việt của
Viện Ngôn ngữ do giáo sư Hoàng Phê chủ biên[14], Từ
điển Bách khoa Việt Nam[15] do
Hội đồng Quốc gia Chỉ đạo biên soạn. Nhưng việc dùng từ ngữ và nhất là cách
đánh dấu giọng trên các từ vẫn còn rất tuỳ tiện.
Hơn nữa, chúng ta còn
có Quyết định số 240/QĐ ngày 5/3/1984 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục ban hành, kèm
theo bản "Quy định về Chính tả tiếng Việt và về thuật ngữ tiếng Việt"[16],
và Quyết định số 09/1998QĐ-VPCP, ngày 25/11/1998 của Văn phòng Chính Phủ về
cách viết hoa các tên riêng[17].
Tuy dù các văn bản pháp quy đó rất rõ ràng và cụ thể, nhiều văn bản của chính
quyền cũng như của các tổ chức xã hội dân sự vẫn chưa giữ đúng các quy định đó.
Các văn bản thường đánh sai dấu trên các vần oa, oe, uê, uơ, uy (Thí dụ: trong
các từ hóa, lóe, hụê, thủơ, thúy,) vì không phân biệt được các chữ
a, e, i, o, u, y có thể là nguyên âm và cũng có thể là bán phụ âm.
Chúng tôi đã phân tích
vấn đề và đã trình bày trong cuộc Hội thảo Khoa học ở Bình Định, từ ngày
12-13/1/2016, với chủ đề Bình Định với chữ Quốc ngữ[18].
Cách đặt dấu giọng sai sót này đang phổ biến và lan rộng trong các sách vở, báo
chí, truyền hình. Nó đi ngược với sự chuẩn hoá của tiếng Việt theo đúng
khoa ngôn ngữ học được Nhà nước quy định. Nó cũng biểu lộ tính phân hoá của người
Việt Nam, thái độ coi thường pháp luật và không tôn trọng khoa học của người Việt
Nam, khiến cho người nước ngoài đánh giá thấp giá trị tiếng Việt và chữ Việt.
3. Văn hay chữ tốt
Cha ông ta thường nhắc
nhở: văn hay chữ tốt, chứ không phải văn hay chữ đẹp.
Văn là người và chữ cũng là người!
Khoa tâm lý học hiện đại
đã căn cứ vào những nét chữ viết tay để đoán ra tâm tính, tư cách, tài năng của
con người. Người ta áp dụng việc phân tích nét bút của người viết trong các
ngành tuyển dụng nhân sự, lựa chọn nghề nghiệp, giám định tư pháp. Các nhà tâm
lý học còn cho rằng có sự liên hệ, tương quan giữa nét chữ và sức khoẻ tâm lý.
Căn cứ vào nét chữ to, nhỏ, đậm, nhạt, nét mạnh mẽ, thẳng đứng hay cong queo,
chữ rộng hay hẹp, khoảng cách giữa các từ nhiều hay ít, chiều cao của chữ hoa vừa
hay thấp, độ nghiêng của chữ về bên phải hay bên trái… mà người ta có thể đoán
ra phần nào khả năng, trí tuệ, tâm tính của người viết[19].
Thật ra, việc phân biệt
rõ chính tà, tốt xấu của một người không thể chỉ căn cứ vào chữ viết bên ngoài,
dù rằng chữ viết có thể giúp phỏng đoán phần nào khi dùng nó như dấu hiệu. Con
người là một mầu nhiệm sau thẳm vô cùng, nên cha ông ta vẫn nhắc nhở:
Dò sông dò biển dễ
dò
Nào ai lấy thước mà
đo lòng người[20].
Có lẽ vì muốn cho con
cái mình luyện được chữ tốt, nên cha mẹ thời xưa thường thúc giục con cái tập đồ
các chữ theo các tập in sẵn để luyện chữ viết cho thẳng hàng, cân đối, hài hoà.
Các cháu học sinh lớp 1 hiện nay cũng đang làm như vậy, nhưng nhiều cha mẹ lại
ít quan tâm đến việc này, vì chữ viết của họ rất xấu, không dám làm gương cho
con cái.
4. Chữ Quốc ngữ -
chữ nước ta
Chữ Quốc ngữ hiện nay
là chữ ghi âm tiếng Việt bằng chữ cái Latinh, có bổ sung một số dấu phụ của tiếng
Ý, tiếng Bồ Đào Nha, được các linh mục Dòng Tên phương Tây như Francisco de
Pina, João Roiz, Gaspar Luis, Cristo Forro Borri, Alexandre de Rhodes (Đắc Lộ),
Gaspar d'Amaral với sự cộng tác của người Việt Nam như Igesicô Văn Tín, Bento
Thiệu sáng tạo ra trong khoảng 1620-1659[21].
Điều đáng ghi nhận ở
đây là dù khoa ngôn ngữ học vào thời đó chưa được thành hình, nhưng trong các
tác phẩm của Alexandre de Rhodes (Đắc Lộ) như Phép giảng Tám ngày, Văn
phạm Annam, nhất là cuốn Từ điển Việt-Bồ-La xuất bản năm
1651 ở Rôma, các dấu giọng được đánh rất chính xác trên các từ như hoá,
hoà, hoả (tr.329-330) phân biệt với hào, hảo (tr.
315,316) hoặc trên các từ thuế (tr. 782), lào (tr.402) léo (tr.411)
và loã lồ(tr.417) theo đúng với Từ điển khoa Ngôn ngữ học. Riêng vần
uy với từ hủy (tr.341) và thủy(tr.783)[22],
chúng tôi hiểu rằng những con chữ sắp tay đúc bằng chì thời đó chưa đúc được
theo đúng ý của tác giả vì việc đặt dấu "nặng" dưới chữ y (ỵ) không
thể thực hiện được như ta thấy tác giả Gustave Hue đã nói đến lý do này trong lời
mở đầu cho cuốn Từ điển Việt Hoa Pháp xuất bản năm 1937 của ông ở Huế[23].
Một khi chúng ta đã có
những nguyên tắc rõ ràng của khoa ngôn ngữ học để có cách đánh dấu chuẩn mực,
được thể hiện qua các sách giáo khoa và từ điển như bộ Từ điển Bách
khoa Việt Nam, thì chúng ta cần tiến tới sự thống nhất cách đặt dấu giọng
trên toàn quốc và phổ biến cả ra nước ngoài để những ai học tiếng Việt tìm được
sự trong sáng và hợp lý.
5. Hãy viết những lời
này
Người tín hữu chúng ta
cần phải sử dụng những lợi thế của chữ viết trong thời đại tin học này “để
viết nên những lời đáng tin cậy và chân thật” (Kh 21,5) như Chúa đã truyền
cho ông Moisê trên núi Sinai (Xh 34,27) và từng người chúng ta qua thánh Gioan:
“Vậy ngươi hãy viết những gì đã thấy, những gì đang diễn ra và những gì sẽ xảy
ra sau này” (Kh 1,19). Đây thuộc về nhiệm vụ làm tiên tri mà mỗi tín hữu đã
lãnh nhận khi được xức dầu thánh hiến qua bí tích Rửa Tội.
Chúng ta đang sống
trong thời của Giao Ước Mới mà Đức Giêsu Kitô đã thực hiện trên bàn thờ thập
giá với máu thánh Người đổ ra để xoá bỏ tội lỗi cho ta, giao hoà chúng ta với
Chúa Cha và làm cho ta trở thành con cái của Cha Trên Trời. “Thiên Chúa đã
ban cho chúng ta khả năng phục vụ Giao Ước Mới, không phải giao ước căn cứ trên
chữ viết, nhưng dựa vào Thần Khí, vì chữ viết thì giết chết, còn Thần Khí mới
ban sự sống” (2 Cr 3,6).
Nhờ Thần Khí tình yêu
mà Chúa Thánh Thần ban cho qua Chúa Giêsu, chúng ta sẽ viết nên Lời Tin Mừng bằng
chính cuộc sống của mình để thu hút nhiều người tin theo Đức Giêsu. Lúc đó ta
có thể nói cho những anh chị em đó rằng: “Rõ ràng anh chị em là bức thư của
Đức Kitô được giao cho chúng tôi, không phải viết bằng mực đen, nhưng bằng Thần
Khí của Thiên Chúa hằng sống, không phải ghi trên những tấm bia bằng đá, nhưng
trên những tấm bia bằng thịt tức là lòng người” (2Cr 3,3).
Lời kết
Người tín hữu Công
giáo Việt Nam chúng ta có quyền tự hào vì đã đóng góp vào việc phát minh ra chữ
Việt và đã chịu biết bao đau khổ, bách hại, thậm chí dâng hiến cả mạng sống để
bảo vệ những giá trị văn hoá cao quý của Công giáo. Tuy nhiên hình như chúng ta
chưa biết bảo tồn và phát huy những giá trị của tiếng Việt và chữ Việt: rất nhiều
sách báo Công giáo hiện nay không tuân thủ các quy tắc và tiêu chuẩn của ngôn
ngữ học, chúng ta cũng chưa thúc đẩy việc sáng tác các thơ văn để có nhiều tác
phẩm có giá trị văn học. Chúng ta cần cố gắng hơn nữa để khỏi thẹn với cha ông
và có trách nhiệm nhiều hơn với thế hệ tương lai.
Câu hỏi gợi ý:
1. Bạn đã quan tâm
thế nào với chữ viết của bạn?
2. Bạn nghĩ mình
nên làm gì để cổ vũ cho việc phát triển văn học Công Giáo?
Lm. Antôn Nguyễn Ngọc
Sơn
[1] Kẻ
tiểu nhân được trọng dụng, người quân tử sẽ rút lui.
[2] A
vaincre sans péril on triomphe sans gloire.
[3] Mt 20,23.
[4] Ibid.
[5] Ibid.
[6] Ibid.
[7] X. Mc 9,33-34;
10,35-40.
[8] Mt 20,23.
[9] X. Mc 9,33;
10,41-45.
[10] Mt 20,23.
[11] Theo
Bộ Thông tinTruyền thông, có 60 triệu người Việt Nam sử dụng internet 7 giờ/ngày
trên tổng dân số 95 triệu người. Báo Thanh Niên ngày 10/12/2018, tr.7, chiếm
hơn 60% Facebook 60tr.
[12] X.
Hình ảnh bài Tiếng Việt lớp 1, Tập 1, tr 1-3; Nguyễn Ngọc
Sơn, Kỹ thuật Chữ, giáo trình trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật
TP.HCM, NXB Giáo Dục, 1996, tr.72-73.
[13] X.
Tranh cãi về Công nghệ giáo dục Tiếng Việt lớp 1, Người trong cuộc nói
gì, Báo Tuổi Trẻ, ngày 9/9/2018, tr.1,2,3; Báo Thanh Niên, ngày 9/9/2018,
tr.5.
[14] X.
Trung tâm Từ điển học, Từ điển Tiếng Việt, 2013, NXB Đà Nẵng-Vietlex,
Hà Nội, 2013.
[15] X.
Hội đồng Quốc gia chỉ đạo biên soạn, Từ điển Bách khoa Việt Nam, NXB
Từ điển BKVN, Hà Nội, 1995-2005.
[16] X.
Vietlex, Từ điển Tiếng Việt, 2013, tr.V.
[17] X.
Quy định Số: 09/1998/QĐ-VPCP, Thư viện Pháp Luật, Internet.
[18] X.
Tài liệu Hội thảo, Lm. Nguyễn Ngọc Sơn; Bài tham luận Việc thống nhất
cách đặt dấu giọng trên vài vần cho phù hợp với khoa ngôn ngữ học hiện đại,
tr.519-527.
[19] X.
Internet, 6/12/2018, Chữ viết thể hiện tâm người, có thể phân biệt rõ
người chính kẻ tà, Bài của Tuệ Minh; Chỉ cần nhìn chữ viết, tôi có
thể nói bạn là người thế nào, Bài của R.D.
[20] X.
Internet, bài Ngộ nhận trong tâm lý học: chữ viết tiết lộ được những đặc
điểm tính cách của con người. Tác giả của cuốn 50 ngộ nhận phổ biến
của tâm lý học phổ thông. S.O. Lilienfeld, S.J. Lynn; J.Ruscio. Người dịch
Nguyễn Hoàng.
[21] X.
Đỗ Quang Chính, Lịch sử chữ Quốc ngữ 1620-1659, NXB Ra Khơi, Sài
Gòn, 1972.
[22] X.
Lm. Nguyễn Ngọc Sơn, Bài tham luận tại Hội thảo khoa học ở Bình Định, tr.520.
[23] X.
Lm. Nguyễn Ngọc Sơn, Bài tham luận tại Hội thảo khoa học ở Bình Định, tr.523.
Ủy ban Giáo dân - HĐGMVN
- Đức Tổng Giám mục Giuse Nguyễn Năng: Thế nào là Tham gia vào đời sống Giáo Hội? ( 26/03/2024)
- Tham gia là một ơn gọi? ( 20/03/2024)
- Toàn văn Văn kiện “Canh tân đời sống đức tin theo tinh thần Công nghị Tổng Giáo phận Hà Nội” ( 12/03/2024)
- Ủy ban Giáo dân – Thường huấn tháng 03/2024: Giáo xứ là trường tông đồ ( 02/03/2024)
- Ủy ban Giáo dân – Thường huấn tháng 02/2024: Sự tham gia của giáo dân vào đời sống Giáo hội ( 02/02/2024)
- Thẩm quyền truyền giáo và vai trò lãnh đạo mang tính ngôn sứ của phụ nữ trong Giáo hội sơ khai ( 02/02/2024)
- Ủy ban Giáo dân – Thường huấn tháng 01/2024: Nền tảng của tính hiệp hành và Giáo hội hiệp hành ( 29/12/2023)
- Ủy ban Giáo dân – Thường huấn năm 2024: Thúc đẩy sự tham gia đời sống Giáo hội, hướng đến một Giáo hội hiệp hành ( 29/12/2023)
- Diễn từ Đức Thánh Cha dành cho thành viên Phong trào Focolare ( 09/12/2023)
- Không ai được “ăn không ngồi rồi” ( 24/11/2023)