Thông điệp Deus Caritas Est - Thiên Chúa là tình yêu
THÔNG ĐIỆP
DEUS CARITAS EST
(THIÊN CHÚA LÀ TÌNH YÊU)
CỦA ĐỨC THÁNH CHA
BÊNÊĐICTÔ XVI
GỬI CÁC GIÁM MỤC
CÁC LINH MỤC VÀ PHÓ TẾ
CÁC TU SĨ NAM NỮ
VÀ TẤT CẢ CÁC TÍN HỮU
VỀ ĐỨC ÁI KITÔ GIÁO
DẪN NHẬP
1. “Thiên chúa là tình yêu: ai ở lại trong tình yêu thì ở lại trong Thiên
Chúa và Thiên Chúa ở lại trong người ấy” (1Ga 4,16). Những lời này được
trích từ Thư thứ nhất của Thánh Gioan, diễn tả rõ ràng điều làm nên trọng tâm đức
tin Kitô giáo: hình ảnh Thiên Chúa của Kitô giáo, từ hình ảnh này rút ra hình ảnh
con người và con đường của họ. Thêm nữa, cũng ngay trong câu đó, Thánh Gioan
đưa ra cho chúng ta một công thức tóm tắt đời sống Kitô hữu: “Chúng ta đã nhận biết và tin vào tình yêu
Thiên Chúa dành cho chúng ta”.
“Chúng ta đã tin vào tình yêu Thiên Chúa”: Người Kitô hữu có
thể diễn tả quyết định căn bản của đời mình như thế. Khởi đầu cho cuộc sống
Kitô hữu không phải là một quyết định đạo đức hay một tư tưởng vĩ đại, nhưng là
sự gặp gỡ với một biến cố với một Con Người, Đấng đem lại cho đời sống chúng ta
một chân trời mới và từ đó một định hướng dứt khoát. Trong Phúc Âm, Thánh Gioan
nhấn mạnh sự kiện này với những lời như sau: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của
Người… thì được sống muôn đời” (Ga 3,16). Khi nhận ra đặc tính trung
tâm của tình yêu, niềm tin Kitô giáo đã đón nhận điều cốt lõi của đức
tin Israel và đồng thời mang lại cho cốt lõi này một chiều sâu rộng mới.
Người Do Thái đạo đức cầu nguyện hằng ngày với lời kinh rút từ sách Đệ nhị luật,
trong đó họ nhận ra trọng tâm cuộc sống của mình: “Nghe đây, hỡi Israel! Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa
duy nhất. Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết lòng hết dạ, hết sức
anh em” (Đnl 6,4-5). Đức Giêsu đã nối kết giới răn mến Chúa với giới
răn yêu người rút từ sách Lêvi: “Ngươi
phải yêu đồng loại như chính mình” (Lv 19,18) thành một mệnh lệnh duy
nhất (x. Mc 12,29-31). Vì Thiên Chúa đã yêu chúng ta trước (x. lGa 4,l0), nên
tình yêu không còn là một “giới luật”,
nhưng là lời đáp trả cho hồng ân “tình
yêu” qua đó Thiên Chúa đến gặp gỡ chúng ta.
Trong một thế giới, nơi danh
Thiên Chúa đôi khi bị nối kết với sự trả thù hay cả với nghĩa vụ hận thù và bạo
lực, một sứ điệp như trên vừa rất hợp thời, vừa rất có ý nghĩa. Vì thế trong
Thông điệp đầu tiên của tôi, tôi muốn nói về tình yêu Thiên Chúa ban tặng cho
chúng ta và chúng ta phải tiếp tục trao ban cho kẻ khác. Như thế đã vạch ra hai
phần gắn bó chặt chẽ với nhau của Thông điệp này. Phần đầu mang đặc tính lý
thuyết nhiều hơn, vì tôi cố ý - vào lúc khởi đầu triều đại Giáo hoàng của tôi -
giải thích một số điểm căn bản về tình yêu Thiên Chúa trao ban cho con người
cách mầu nhiệm và hoàn toàn nhưng không, và đồng thời cho thấy sự liên kết nội
tại giữa tình yêu này của Thiên Chúa với thực tại của tình yêu con người. Phần
hai mang tính cụ thể hơn vì tình bày việc thực hành giới luật yêu người của Hội
Thánh. Đề tài quá rộng lớn; một sự trình bày tường tận sẽ vượt quá mục đích của
Thông điệp này. Tôi chỉ muốn nhấn mạnh vài yếu tố căn bản để khơi dậy trong thế
giới một năng động mới cho việc con người đáp trả lại tình yêu của Thiên Chúa.
PHẦN THỨ NHẤT: SỰ
THỐNG NHẤT CỦA TÌNH YÊU TRONG SÁNG TẠO VÀ LỊCH SỬ CỨU ĐỘ
Một vấn đề ngôn ngữ
2. Tình yêu Thiên Chúa dành cho
chúng ta là vấn nạn căn bản của cuộc sống và đưa ra những câu hỏi mang tính quyết
định: Thiên Chúa là ai và chúng ta là ai? Về vấn đề này, trước tiên, chúng ta gặp
một vấn nạn về ngôn ngữ. Ngày nay, thuật ngữ “tình yêu” là những từ được sử dụng nhiều nhất và cũng bị lạm dụng
nhiều nhất; với thuật ngữ này, chúng ta có thể gán cho rất nhiều ý nghĩa khác
nhau. Cả khi đề tài của Thông điệp này tập trung vào việc nhận thức và thực
hành tình yêu theo Thánh Kinh và Thánh Truyền, chúng ta cũng không được phép bỏ
qua việc tìm hiểu xem từ này mang ý nghĩa gì nơi các nền văn hoá khác nhau và
trong cách sử dụng ngôn ngữ hiện tại.
Trước tiên, chúng ta nhớ đến sự
đa dạng ý nghĩa của thuật ngữ “tình yêu”:
chúng ta nói đến tình yêu tổ quốc, tình yêu nghề nghiệp, tình yêu bạn bè, yêu
thích việc làm, tình yêu giữa cha mẹ và con cái, giữa anh chị em và thân bằng
quyến thuộc, tình yêu tha nhân và tình yêu đối với Thiên Chúa. Tuy nhiên, trong
sự đa dạng ý nghĩa này, có một điều nổi bật lên, đó là tình yêu giữa người nam
và người nữ, trong đó hồn xác kết hợp bất khả phân ly và mở ra cho con người một
lời hứa hạnh phúc dường như không cưỡng lại được. Tình yêu này có vẻ là kiểu mẫu
của tình yêu; bên cạnh tình yêu này, thoạt nhìn mọi hình thức khác của tình yêu
hầu như mờ nhạt đi. Do đó, nảy sinh một câu hỏi: có phải mọi hình thức của tình
yêu cuối cùng cũng kết hợp lại với nhau, và tình yêu - dù có khác biệt trong mọi
hình thức - vẫn là một, hay trái lại chúng ta sử dụng một từ để chỉ nhiều thực
tại khác biệt nhau ?
“EROS” và “AGAPE” – khác biệt và thống nhất
3. Tình yêu giữa người nam và người
nữ không xuất phát từ suy tư và ý chí nhưng thống trị con người trọn vẹn; người
Hy Lạp gọi tình yêu đó là eros (tình
ái). Phải nhắc lại rằng, Cựu Ước chỉ sử dụng từ eros có 2 lần, trong khi Tân Ước không hề sử dụng: trong 3 thuật ngữ
Hy Lạp về eros (tình yêu), philia (tình bạn), agape (bác ái) - các tác phẩm Tân Ước
chỉ sử dụng từ cuối cùng, nhưng từ này lại rất ít được dùng trong ngôn ngữ Hy Lạp.
Quan niệm tình bạn (philia) được Phúc
Âm Thánh Gioan sử dụng và đào sâu ý nghĩa, để làm nổi bật quan hệ giữa Đức
Giêsu với các môn đệ của Người. Việc không sử dụng từ eros và cái nhìn mới về tình yêu nổi bật trong từ agape, chắc chắn cho thấy điếu cơ bản
trong cái mới của Kitô giáo về cách hiểu tình yêu. Trong việc phê phán Kitô
giáo, được triển khai triệt để từ thời Triết lý Ánh Sáng, điều mới mẻ này bị
đánh giá cách tiêu cực. Theo Friedrich Nietzsche, Kitô giáo đã đầu độc eros (tình ái); tình ái nếu không bị triệt tiêu thì cũng
trở thành tật xấu[1]. Triết gia người Đức này muốn
nói lên một quan niệm rất phổ biến: Hội Thánh, với lề luật và giới cấm của
mình, đã chẳng ngăn cản chúng ta hưởng thụ điếu tốt đẹp nhất trong cuộc sống đó
sao? Hội Thánh đã chẳng dựng bảng cấm ngay tại niềm vui đã được Đấng Sáng tạo
trù liệu sẽ đem lại cho ta một niềm hạnh phúc khiến ta được nếm trước hương vị
thần linh đó sao?
4. Có thật như thế không? Có phải
Kitô giáo thực sự thủ tiêu eros không? Chúng ta hãy nhìn vào thế giới trước khi
có Kitô giáo. Cũng tương tự như ở các nền văn hoá khác, người Hy Lạp trước tiên
nhìn trong eros một sự say đắm, lý
trí bị một sự “điên dại thần bí” thống
trị, bứt con người ra khỏi hiện thực hạn hẹp của mình và trong tình trạng bị
quyền lực thần linh này thống trị, sẽ đưa họ đến cảm nghiệm sự diễm phúc cao độ
nhất. Tất cả các quyền lực khác giữa trời và đất đều trở thành thứ yếu: “Omnia vincit Amor” (tình yêu vượt thắng tất
cả), đó là câu nói của thi sĩ Virgile trong tập Bucolica. Và ông còn
thêm: “Et nos cedamus amori” (và cả
chúng ta hãy khuất phục trước tình yêu)[2]. Trong các tôn giáo
thái độ này ẩn tàng trong các hình thức phụng thờ sự phong phú về mặt sinh sản;
việc “mại dâm thánh” nở rộ trong các
đến thờ cũng thuộc về thứ phượng tự này. Eros được cử hành như một sức mạnh thần linh, như một sự kết hợp
với thần linh.
Cựu Ước kiên quyết chống lại hình
thức tôn giáo này, vì xem đó như một thứ cám dỗ mạnh mẽ chống lại niềm tin độc
thần và như một thứ lệch lạc tôn giáo. Dù vậy, Cựu Ước không phủ nhận eros theo
đúng ý nghĩa của nó, nhưng chiến đấu chống lại hình thức hủy hoại của nó. Vì sự
thần thánh hoá eros cách sai lệch, diễn
ra ở đây, làm mất đi phẩm giá của nó và chà đạp con người. Các cô gái điếm
trong đền thờ, phải đem lại sự say sưa thần thánh, lại không được đối xử như
con người và nhân vị, nhưng phục vụ như các đối tượng để đem lại “cơn điên thần bí”: trong thực tế, họ
không phải là các nữ thần, nhưng chỉ là những con người bị lạm dụng. Vì thế eros vô luân và điên đảo không phải
là sự vươn lên, “ngất trí đến với thần
linh”, nhưng là sự sa đọa của con người. Rõ ràng, eros cần sự thanh luyện, để nó không chỉ đem lại cho con người
chút khoái lạc chóng qua, nhưng là một sự nếm trước đỉnh cao của cuộc sống - một
thứ diễm phúc mà cuộc đời chúng ta hướng đến.
5. Từ cái nhìn ngắn ngủi về hình ảnh
của eros trong lịch sử và trong hiện
tại, chúng ta thấy có hai chiều kích rõ rệt. Chiều kích thứ nhất, tình yêu có
liên hệ với Thiên linh: tình yêu hứa ban sự vô hạn, vĩnh cửu - sự cao cả và
hoàn toàn khác với thực trạng hằng ngày của chúng ta. Đồng thời cũng cho thấy,
con đường để đạt đến đó không phải chỉ đơn thuần là tùng phục bản năng. Sự
thanh luyện và trưởng thành rất cần thiết, và các điều này phải kinh qua con đường
từ bỏ. Đây không phải là phủ nhận, cũng không phải là “đầu độc” eros, nhưng là
chữa lành để đạt được sự cao cả thực sự của nó.
Điều này tùy thuộc trước tiên vào
quan niệm về bản chất của con người gồm hồn và xác. Con người thực sự là chính
mình, khi hồn xác tìm được sự hợp nhất nội tại; thách đố của eros chỉ có thể vượt thắng khi sự hợp
nhất này được thành tựu. Nếu con người chỉ muốn mình là tinh thần và hạ giá
thân xác như gia sản động vật, thì hồn xác sẽ mất đi phẩm giá của mình. Và nếu
như họ phủ nhận tinh thần và nhìn vật chất, thân thể của họ, mới là thực tại
duy nhất, họ cũng lại đánh mất sự cao cả của mình. Triết gia Gassendi thuộc trường
phái Epicure hưởng lạc chào hỏi Descartes cách hóm hỉnh: “Ô! Hồn ơi!” Và triết gia Descartes đáp lại: “Ô! Xác ơi!”[3]
Thế nhưng không phải chi có hồn hay chỉ có xác mới yêu - con người, nhân vị,
yêu như một thụ tạo duy nhất và đơn nhất, bao gồm cả hồn lẫn xác. Chỉ khi đó,
tình yêu - eros - mới đạt
được sự cao cả thực sự của mình.
Kitô giáo trong quá khứ bị kết án
là thù ghét thân xác, và ngày nay xu hướng này vẫn còn. Thế nhưng cách tôn vinh
thân xác mà chúng ta thấy ngày hôm nay chỉ là dối trá. Eros (tình ái) bị hạ giá xuống
thành sex (tình dục), trở
thành hàng hoá, thành “vật phẩm”; người
ta có thể mua hay bán nó, thật vậy, chính con người cũng trở thành hàng hoá.
Trong thực tế, điều này không phải là tiếng nói đồng ý cao cả của con người đối
với thân xác mình. Ngược lại, họ nhìn thân xác và giới tính chỉ là chất liệu
đơn thuần nơi bản thân mình mà họ có thể sử dựng và khai thác tuỳ ý. Phần vật
chất này không nằm trong bình diện của sự tự do, nhưng là một cái gì mà con người
theo cách thức của mình tìm cách để hưởng thụ mà không có hại. Trong thực tế,
chúng ta đứng trước một sự hạ giá thân xác con người; thân xác này không còn được
hội nhập vào sự trọn vẹn của tự do trong đời sống chúng ta, không còn là dấu chứng
sống động của toàn bộ cuộc sống của chúng ta, nhưng bị đẩy lùi vào bình diện
sinh lý. Việc tôn vinh giả tạo thân xác có thể mau chóng trở thành thù ghét
chính thân xác. Ngược lại, niềm tin Kitô giáo luôn nhìn con người như là một hữu
thể gồm cả hồn lẫn xác, nơi họ, tinh thần và vật chất nối kết chặt chế với nhau
và cả hai cảm nghiệm được sự cao quý mới. Vâng eros muốn đưa chúng ta đến bầu khí thần linh, vượt lên khỏi
chúng ta, vì thế nó đòi buộc một con đường vươn lên, từ bỏ, luyện và chữa trị.
6. Làm thế nào chúng ta trình bày
cách cụ thể con đường vươn lên và thanh luyện này? Chúng ta phải sống tình yêu
như thế nào, để sự hứa hẹn mang tính nhân bản và thiên linh của nó được thành tựu?
Chúng ta tìm gặp hướng dẫn đầu tiên và quan trọng trong sách Diễm Ca, một trong
các sách của Cựu Ước, quyển sách mà các nhà thần bí rất quen thuộc. Theo cách
giải thích ưu thế nhất ngày hôm nay, thì các bài thơ tạo thành quyển sách này,
nguyên thủy là các bài tình ca, có lẽ được dành cho các lễ cưới của người Israel,
trong ngày lễ đó các bài thơ muốn tôn vinh tình yêu hôn nhân. Điều đáng nói là
trong quyển sách này có hai từ khác biệt để nói về tình yêu. Trước tiên là thuật
ngữ dodim - một từ thuộc số
nhiều diễn tả một tình yêu còn chưa chắc lắm, còn trong tình trạng tìm hiểu,
chưa xác định. Từ này được thay thế bằng từ ahaba, mà trong cách chuyển ngữ ra tiếng Hy Lạp của Cựu Ước được
dịch bằng từ agape có âm
vang tương tự và - như chúng ta thấy - đã trở thành từ ngữ đặc thù cho cách hiểu
theo Thánh Kinh về tình yêu. Ngược lại với tình yêu còn đang tìm hiểu và chưa
xác định, từ này diễn tả cảm nghiệm tình yêu, trở thành một khám phá đích thực
người khác, qua đó vượt thắng được cái tôi ích kỷ mà trước đó vẫn luôn chế ngự.
Tình yêu bấy giờ trở thành sự chăm sóc người khác và cho người khác. Tình yêu
không còn tìm cho chính bản thân mình - sự chìm đắm trong say mê hạnh phúc -
nhưng chỉ muốn điều tốt lành cho người mình yêu: tình yêu trở thành sự từ bỏ, sẵn
sàng trở thành lễ vật, vâng, tình yêu muốn như thế.
Để thăng tiến và thanh luyện chiều
sâu, tình yêu cần sự dứt khoát theo một ý nghĩa kép: theo nghĩa dứt khoát – “duy chỉ một người mà thôi” - và theo
nghĩa “vĩnh viễn”. Tình yêu bao trùm
toàn bộ cuộc sống trong mọi chiều kích của nó, kể cả chiều kích thời gian. Điều
này không thể khác đi được vì sự hứa hẹn của nó nhắm vào sự dứt khoát: tình yêu
nhắm vào sự vĩnh cửu. Vâng, tình yêu là “xuất
thần”, nhưng xuất thần không theo nghĩa một thoáng đam mê, xuất thần như là
con đường vững chắc bước ra khỏi cái tôi đóng kín để tự do dâng hiến cái tôi của
mình, để cho đi và qua đó để tìm được chính mình, vâng, để tìm được Thiên Chúa.
Đức Giêsu nói: “Ai tìm cách giữ mạng
sống mình, thì sẽ mất, còn ai liều mất mạng sống mình, thì sẽ bảo tồn được mạng
sống” (Lc 17,33) - một lời được nhắc lại nhiều lần trong các sách Phúc
Âm (x. Mt 10,39; 16,25; Mc 8,35; Lc 9,24; Ga 12,25). Với lời này, Đức Giêsu mô
tả chính con đường của mình, qua thập tự để đến Phục sinh - con đường của hạt
lúa, rơi vào lòng đất, chết đi để mang lại nhiều hoa trái; nhưng Người cũng diễn
tả bản chất của tình yêu và cuộc sống con người nói chung, khởi đi từ trọng tâm
hy tế bản thân Người và từ tình yêu viên mãn của Người.
7. Những suy tư triết lý về bản chất
của tình yêu đưa chúng ta đến niềm tin theo Thánh Kinh. Khởi đầu là câu hỏi, những
ý nghĩa khác biệt, đôi khi đối nghịch nhau của từ “tình yêu” một cách nào đó đều hướng về một sự thống nhất nội tại,
hay là chúng đứng cận kề không liên hệ gì với nhau cả, đặc biệt là câu hỏi: sứ
điệp được rao giảng trong Thánh Kinh và Thánh Truyền của Giáo Hội về tình yêu
có liên hệ gì với cảm nghiệm tình yêu của con người cách chung hay chống lại cảm
nghiệm đó. Về vấn đề này, chúng ta gặp cả hai từ căn bản, eros như là cách trình bày tình yêu
trần thế, và agape như là
cách diễn tả tình yêu được đặt nền tảng trên đức tin và được nhào nặn bởi đức
tin. Cả hai thường bị đặt đối kháng với nhau như là một thứ tình yêu “đi lên” và một thứ tình yêu “đi xuống”; còn có những cách phân loại
khác tương tự, ví dụ như cách phân biệt tình yêu “ham muốn” và tình yêu “ban tặng” (amor concupiscentiae - amor
benevolentiae), đôi khi người ta cũng thêm vào thứ tình yêu hưởng thụ.
Trong cuộc trao đổi triết học và
thần học, những phân biệt này được đưa lên thành những đối kháng: tình yêu theo
quan niệm Kitô giáo là agape, tình
yêu đi xuống và dâng hiến; ngược lại, tình yêu eros không thuộc về Kitô giáo, đặc biệt thuộc văn hoá Hy Lạp,
là tình yêu đi lên và ham muốn. Nếu như người ta đưa việc đối kháng này đến mức
triệt để, thì điểm đặc thù của Kitô giáo sẽ bị tách ra khỏi những liên hệ căn bản
của cuộc sống con người và trở thành một thế giới đặc biệt, người ta có thể
nhìn ngắm một cách kinh ngạc, nhưng lại bị cắt khỏi sự toàn diện của đời sống
con người. Trong thực tế, eros và agape - tình yêu đi lên và đi xuống
- không bao giờ tách biệt nhau. Khi cả hai càng hợp nhất đúng đắn dưới mọi chiều
kích khác biệt trong một thực tại tình yêu duy nhất, thì bản chất chân thật của
tình yêu càng tỏ hiện rõ ràng. Cho dù khởi đầu eros còn mang tính chất khả giác và vươn lên - hấp dẫn vì hứa
hẹn hạnh phúc – nhưng khi đến với người khác, con người sẽ không luôn hướng về
mình, mà luôn ước muốn đem lại hạnh phúc cho người khác, luôn chăm sóc đến họ,
tự hiến chính mình và muốn hiện diện cho họ. Đó là lúc agape xen vào trong họ, nếu không như thế, con người sẽ bị hụt hẫng
và đánh mất chính bản chất của mình. Ngược lại, con người không còn khả năng sống
đơn thuần trong tình yêu ban tặng và đi xuống. Con người không thể cho mãi, họ cũng phải đón nhận. Ai muốn ban tặng
tình yêu thì chính họ cũng được lãnh nhận tình yêu. Chắc chắn, con người có thể
- như Chúa nói - trở thành nguồn mạch, từ đó tuôn trào nước hằng sống (x. Ga
7,37-38). Nhưng để có thể trở thành nguồn mạch như thế, họ phải luôn được uống
nơi nguồn mạch đầu tiên, nguyên thủy, nơi Đức Giêsu Kitô, từ cạnh sườn được
khai mở của Người, tình yêu của Thiên Chúa luôn tuôn trào (x. Ga 19,34).
Các giáo phụ nhìn trình thuật về
cái thang của Giacóp như tượng trưng cho liên hệ bất khả phân ly của việc vươn
lên và hạ xuống, của eros đi
tìm Thiên Chúa và agape trao
lại hồng ân nhận được bằng nhiều cách thức. Bản văn Kinh Thánh này tường trình
câu chuyện tổ phụ Giacóp khi gối đầu trên một viên đá, đã mộng thấy một cái
thang vươn tới trời, trên đó có các thiên thần lên lên xuống xuống (x.St 28,12;
Ga 1,51). Đức Giáo hoàng Grêgôriô Cả đã giải thích hình ảnh của giấc mộng này
cách đánh động trong tác phẩm Quy tắc
Mục vụ của ngài. Ngài nói với chúng ta rằng, vị mục tử chân chính phải
sống thâm sâu trong chiêm niệm. Vì chỉ như thế, vị ấy mới có thể đón nhận những
nhu cầu của kẻ khác trong chính thâm tâm của mình, đến độ những nhu cầu đó trở
nên chính nhu cầu của chính mình: “per
pietatis viscera in se infirmitatem caeterorum transferat” (nhờ lòng đạo đức
ngài có thể chuyển sự yếu đuối của những người khác vào mình)[4].
Đức Giáo hoàng Grêgôriô dẫn chứng Thánh Phaolô, người được đưa lên khỏi bản
thân mình để tiến vào các mầu nhiệm cao cả của Thiên Chúa và khi trở xuống, ông
đã trở nên tất cả cho mọi người (x. 2Cr 12,2-4 ; 1Cr 9,22). Đức Giáo hoàng còn
đưa thêm mẫu gương của Môsê, vị thường bước vào Lều Thánh để đàm đạo với Thiên
Chúa, để từ Thiên Chúa trở về, ông có thể hiện diện cho dân mình: “Trong (Lều Thánh) được ngây ngất trong sự
chiêm niệm, (bên ngoài lều Thánh) ông tự để cho gánh nặng của những người khổ
đau đổ ụp lên mình - (intus
in contemplationem rapitur, foris infirmantium negotiis urgetur)”[5].
8. Như thế, chúng ta đã tìm được
một câu trả lời đầu tiên, nhưng vẫn còn chung cho cả hai vấn nạn được nêu bên
trên: trên căn bản, tình yêu là một thực tại duy nhất, nhưng lại có nhiều chiều
kích khác nhau - tùy trường hợp, có thể chiều kích này nổi trội hơn chiều kích
kia. Nhưng nơi nào cả hai chiều kích bị tách biệt nhau, thì sẽ xuất hiện một bức
ký hoạ hay có khi một hình thức què quặt của tình yêu. Trên căn bản chúng ta đã
thấy, niềm tin theo Thánh Kinh không tạo nên một thế giới bên cạnh hay một thế
giới nghịch lại với hiện tượng nguyên thủy của con người là tình yêu, nhưng đón
nhận con người trọn vẹn, can thiệp vào sự tìm kiếm tình yêu của họ để thanh luyện
và từ đó khai mở cho họ những chiều kích mới. Cái mới của niềm tin theo Thánh
Kinh tỏ hiện trước tiên trong hai điểm, xứng đáng để được làm nổi bật: trong
hình ảnh của Thiên Chúa và trong hình ảnh của con người.
Cái mới của niềm tin theo Thánh Kinh
9. Trước tiên là hình ảnh mới mẻ
của Thiên Chúa. Trong những nền văn hóa vây quanh thế giới của Thánh Kinh, cuối
cùng thì hình ảnh của Thượng đế và của các thần thánh không được rõ ràng và đối
chọi nhau. Ngược lại, trên con đường đức tin theo Thánh Kinh thì điều này lại
rõ ràng và độc đáo hơn như lời kinh căn bản của Israel, là kinh Schema gồm tóm trong câu: “Nghe đây, hỡi Israel ! Đức Chúa,
Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất” (Đnl 6,4). Chỉ có một Thiên
Chúa duy nhất, Người là Đấng Sáng Tạo trời đất và là Thiên Chúa của mọi người.
Có hai điều trong khẳng định độc đáo này: tất cả các thần thánh khác không phải
là Thiên Chúa và tổng thể thực tại, nơi chúng ta đang sống, đều thuộc về Thiên
Chúa, do chính Người sáng tạo. Đương nhiên có rất nhiều tư tưởng về sáng tạo ở
các nơi, nhưng ở đây điều này rất rõ ràng là không phải bất cứ Thiên Chúa nào,
nhưng là Thiên Chúa duy nhất, chân thật, là nguyên ủy của toàn thể thực tại, thực
tại này xuất phát từ quyền lực của lời Người sáng tạo. Điều đó có nghĩa là, thụ
tạo rất thân thiết với Người, chỉ vì Người đã muốn và đã sáng tạo chúng như thế.
Từ đó xuất hiện yếu tố quan trọng thứ hai: Thiên Chúa yêu thương con người. Quyền
lực thần linh, mà triết gia Aristote, ở đỉnh cao của triết học Hy Lạp, tìm cách
nắm bắt qua suy tư, là đối tượng đáng khao khát và yêu thương của mọi hữu thể -
như đối tượng được yêu mến, Thượng Đế này làm chuyển động vũ trụ[6] – nhưng Thượng Đế này không
cần gì cả và cũng không yêu, nhưng chỉ được yêu. Thiên Chúa duy nhất
mà Israel tin tưởng, chính Người cũng yêu. Tình yêu của Người là một
tình yêu tuyển chọn. Từ giữa muôn dân, Người đã chọn Israel và yêu
dân này - đương nhiên với mục đích để chữa trị toàn thể nhân loại. Người yêu,
và người ta có thể xem tình yêu của Người là eros, nhưng cũng đồng thời là agape[7].
Hai vị ngôn sứ Hôsê và Êdêkien đã
đặc biệt diễn tả đam mê của Thiên Chúa đối với dân Người bằng những hình ảnh từ
ái táo bạo. Liên hệ giữa Thiên Chúa với Israel được trình bày bằng
hình ảnh hôn ước và hôn nhân; vì thế việc thờ tà thần được xem như là ngoại
tình và đĩ điếm. Qua đó, như chúng ta đã thấy người ta muốn nhắm đến việc thờ
phượng sự phong phú về mặt sinh sản với sự lạm dụng eros, nhưng đồng thời, người ta cũng diễn tả mối liên hệ trung
tín giữa Israel và Thiên Chúa của mình. Lịch sử tình yêu của Thiên
Chúa với Israel nằm trong chiếu kích sâu thẳm ở chỗ, Người ban cho họ Torah (Lề luật) có nghĩa là mở mắt
họ cho thấy rõ bản chất đích thực của con người và vạch cho họ con đường để trở
thành con người đúng đắn. Lịch sử này bao gồm sự việc: con người khi sống trung
tín với Thiên Chúa duy nhất, sẽ cảm nghiệm mình là người yêu của Thiên Chúa và
tìm được niềm vui trong chân lý, trong công bình - niềm vui trong Thiên Chúa,
niềm vui đó trở thành hạnh phúc thật của mình: “Con còn ai chốn trời xanh Ban Ngài thế sự thật tình chẳng ham.... Còn
hạnh phúc của con là ở kề bên
Chúa” (Tv 72[73], 25.28).
16. Như chúng ta đã nói, eros của Thiên Chúa đối với con người
cũng hoàn toàn là agape. Không
phải chỉ vì eros được ban tặng
cách hoàn toàn nhưng không, không do một công trạng nào trước đó, mà còn vì đó
là tình yêu tha thứ. Trước hết, ngôn sứ Hôsê chỉ cho chúng ta thấy chiều
kích agape của tình yêu
Thiên Chúa đối với con người vượt xa phương diện “nhưng không”. Israel làm gãy đổ cuộc “hôn nhân” - đó là giao ước; đáng lý ra
Thiên Chúa phải xử phạt và loại bỏ dân tộc này. Nhưng chính lúc đó con người được
thấy Thiên Chúa là Thiên Chúa chứ không phải một con người: “Hỡi Ephraim, Ta từ chối ngươi sao nổi! Hỡi
Israel, Ta trao nộp ngươi sao đành… Tim Ta quay lại chống chính Ta, sự thương cảm
của Ta ray rứt Ta. Ta không muốn thẳng tay thực hiện cơn giận của Ta và một lần
nữa tiêu diệt Ephraim. Vì Ta là Thiên Chúa, chứ không phải người phàm, Đấng
Thánh ở giữa ngươi” (Hs
11,8-9). Tình yêu mãnh liệt của Thiên Chúa đối với dân Người - đối với nhân loại
- cũng đồng thời là tình yêu tha thứ. Tình yêu này cao cả đến độ Thiên Chúa chống
lại chính mình, tình yêu của Người chống lại công lý của Người. Người Kitô hữu
nhìn thấy mầu nhiệm Thập giá đang ẩn tàng trong đó: Thiên Chúa yêu thương con
người đến độ trở thành con người, chạy theo họ cho đến độ đi vào cõi chết và với
cách thức này đã giao hoà công lý với tình yêu.
Điều đáng chú ý về mặt triết học
và lịch sử tôn giáo trong cái nhìn của Thánh Kinh nằm ở chỗ, một mặt có thể nói
chúng ta có trước mặt mình một hình ảnh Thiên Chúa thuần túy siêu hình: Thiên
Chúa là nguồn gốc nguyên thủy của mọi hữu thể; nhưng nguồn gốc sáng tạo vạn vật
– Ngôi Lời, lý trí nguyên thủy - cũng đồng thời là một con người yêu với một
tình yêu thực sự đam mê. Như thế, eros được nâng lên hàng cao quý tột đỉnh,
nhưng đồng thời được thanh luyện, để eros tan biến vào trong agape. Từ đó chúng ta có thể hiểu, tác
phẩm Diễm Ca được đón nhận vào Kinh Bộ Sách Thánh, được giải thích như là những
bản tình ca, cuối cùng chỉ để diễn tả liên hệ giữa Thiên Chúa với con người và
liên hệ giữa con người với Thiên Chúa. Với cách thức đó, sách Diễn Ca trong văn
chương Do Thái cũng như Kitô giáo trở thành nguồn cho nhận thức và cảm nghiệm
thần bí, trong đó bản chất của niềm tin theo Thánh Kinh được bộc lộ cách rõ
ràng: Vâng, có một sự kết hợp của con người với Thiên Chúa - đó là giấc mơ
nguyên thủy của con người - nhưng sự kết hợp này không phải là sự tan biến,
chìm sâu vào một đại dương vô danh của thần tính, nhưng là sự hợp nhất tạo nên
tình yêu, trong đó cả hai - Thiên Chúa và con người - ở lại trong tình yêu và
hoàn toàn trở thành một. Thánh Phaolô nói: “Ai đã kết hợp với Chúa, thì nên một tinh thần với Người” (1Cr
6,17).
11. Cái mới đầu tiên của niềm tin
theo Thánh Kinh, như chúng ta thấy, nằm ở hình ảnh của Thiên Chúa; cái thứ hai,
liên hệ chặt chẽ với điều trên, chúng ta gặp trong hình ảnh của con người.
Trình thuật sáng tạo của Thánh Kinh nói về sự cô đơn của Ađam, con người đầu
tiên, mà Thiên Chúa muốn ban cho một sự hỗ trợ thật gần gũi. Không có một thụ tạo
nào có thể trở thành sự hỗ trợ cần thiết cho ông, dù ông có đặt tên cho tất cả
thú vật ngoài đồng và mọi chim trời và như thế đã khiến chúng có liên hệ đến cuộc
sống của ông. Từ xương sườn của người đàn ông, Thiên Chúa đã tạo dựng nên người
đàn bà. Bấy giờ Ađam mới tìm thấy sự hỗ trợ mà ông cần: “Phen này, đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi” (St
2,23). Trong câu này, người ta có thể thấy nhiều quan niệm, tỷ dụ như quan niệm
được huyền thoại của Platon gợi lên, con người nguyên thủy mang hình dáng một
khối tròn, có nghĩa là hoàn toàn đầy đủ cho chính mình, nhưng thần Zeus chặt
con người ra làm đôi để phạt vì tội kiêu ngạo, thế nên từ đó con người luôn tìm
phân nửa kia của mình, luôn hướng về đó, để tìm lại tính trọn vẹn của mình[8]. Trình thuật Thánh Kinh
không nói gì đến hình phạt, nhưng vẫn có tư tưởng là con người một cách nào đó
vẫn chưa trọn vẹn - từ bản chất của mình vẫn đang đi tìm trong người khác phần bổ
sung để đạt được sự trọn vẹn của mình; con người chỉ trọn vẹn khi kết hợp giữa
người đàn ông và người đàn bà. Trình thuật Thánh Kinh kết thúc bằng một lời
tiên tri về Ađam: “Bởi thế, người
đàn ông lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai thành một xương một thịt” (St
2,24).
Ở đây có hai điều quan trọng: eros như được cắm rễ sâu trong bản
tính của con người. Ađam luôn đi tìm và “lìa
cha mẹ”, để tìm người đàn bà; cả hai hợp lại mới nói lên tính trọn vẹn của
con người, cả hai trở thành “một xương một
thịt”. Điếu thứ hai cũng quan trọng không kém: ngay từ lúc sáng tạo, eros hướng con người đến hôn nhân, đến sự
ràng buộc, đến sự duy nhất và dứt khoát. Chỉ như thế định mệnh sâu xa của con
người mới được thực hiện. Hôn nhân một vợ một chồng đáp ứng với hình ảnh Thiên
Chúa độc thần. Hôn nhân căn cứ trên một tình yêu đơn nhất và dứt khoát, trở
thành cách trình bày sự liên hệ giữa Thiên Chúa với dân Người: cách thức Thiên
Chúa yêu trở thành tiêu chuẩn cho tình yêu của con người. Trong văn chương
ngoài Thánh Kinh, người ta không thể nào tìm thấy những suy tư tương tự như việc
nối kết chặt chẽ giữa eros và
hôn nhân trong Thánh Kinh.
Đức Giêsu Kitô - Tình yêu trở thành xác thể
của Thiên Chúa
12. Cho đến bây giờ, chúng ta chủ
yếu nói đến Cựu Ước, nhưng việc thẩm thấu nội tại của hai Giao ước cho thấy rõ
ràng đó chỉ là một Sách Thánh duy nhất của niềm tin Kitô giáo. Điều mới mẻ thật
sự của Tân Ước không phải là các tư tưởng mới, nhưng chính là hình ảnh của Đức
Kitô, Đấng ban cho tư tưởng thịt và máu, một hiện thực chưa từng có. Trong Cựu
Ước cái mới của Thánh Kinh không nằm trong tư tưởng, nhưng nằm trong hành động
đột xuất và độc đáo của Thiên Chúa. Hành động này của Thiên Chúa mang lấy hình
thức bi thảm trong sự kiện, chính Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô chạy theo “con chiên bị thất lạc”, chạy theo nhân
loại đau khổ và bị tiêu vong. Khi Đức Giêsu trong các dụ ngôn nói về người mục
tử chạy theo con chiên bị lạc mất, về người đàn bà đi tìm đồng bạc bị đánh rơi,
về người cha chạy đến người con đi hoang và ôm nó vào lòng, thì đấy không những
chỉ là những lời nói, nhưng là những cách giải thích bản chất và hành động của
chính Người. Trong cái chết thập tự của Người, việc “Thiên Chúa quay lại chống đối chính mình” đạt đến mức tuyệt đỉnh,
khi Người tự hiến chính mình, để nâng con người lên và cứu độ họ - đó là tình
yêu trong hình thức triệt để nhất. Cái nhìn vào cạnh sườn bị đâm thâu của Đức
Giêsu, mà thánh Gioan nói đến (x.Ga 19,37) giúp chúng ta hiểu khởi điểm của
Thông điệp này: “Thiên Chúa là tình
yêu” (1Ga 4,8). Nơi đó, chân lý này có thể được nhìn ngắm. Và cũng từ
đó có thể định nghĩa tình yêu là gì. Từ cái nhìn này, người Kitô hữu tìm được
con đường để sống và để yêu.
13. Đức Giêsu làm cho hành động tận
hiến này được tồn tại mãi qua việc Người thiết lập Bí tích Thánh Thể trong bữa
Tiệc cuối cùng. Người tiền dự cái chết và sự Phục sinh trong giây phút này, khi
trao ban chính mình cho môn đệ trong bánh và rượu, trao ban Mình và Máu Người
như Manna mới (x.Ga 6,31-33). Thế giới ngày xưa đã thoáng thấy rằng của ăn đích
thực của con người - điều nhờ đó mà con người sống đúng là người - xét cho cùng
chính là Logos, là Minh Trí vĩnh hằng, chính Logos đó giờ đây thật sự trở thành
lương thực cho chúng ta - với tính cách là tình yêu Bí tích Thánh Thể lôi kéo
chúng ta vào hành động tận hiến của Đức Giêsu. Chúng ta không chỉ đón nhận
Logos nhập thể, nhưng còn được lôi kéo vào sức năng động của sự tận hiến của
Người. Hình ảnh hôn nhân giữa Thiên Chúa và Israel đã trở thành hiện thực trong
một cách thức không thể nào tưởng tượng nổi: việc đứng trước tôn nhan Thiên
Chúa bây giờ, nhờ thông phần vào hy lễ của Đức Giêsu, thông phần vào Mình Máu
Người, trở thành sự kết hợp. Tính “thần
bí” của bí tích, căn cứ vào việc Thiên Chúa hạ mình đến với chúng ta. Được
thực hiện ở một mức độ hoàn toàn khác biệt, và nâng chúng ta lên những tầm cao
vĩ đại, hơn hẳn bất cứ sự vươn cao mang tính thần bí nào khác của con người.
14. Bây giờ chúng ta chú tâm vào
một điểm khác: sự “thần bí của bí tích có đặc tính xã hội, vì khi hiệp lễ, tôi
được kết hợp với Chúa cũng như với mọi người cùng hiệp lễ: “bởi vì chỉ có một tấm Bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một Bánh ấy,
nên tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể” (1Cr 10,17). Việc kết
hợp với Đức Kitô cũng đồng thời là một sự kết hợp với những kẻ khác, với những
người mà Chúa tự hiến cho. Tôi không thể dành riêng Đức Kitô cho một mình tôi,
tôi chỉ có thể thuộc về Người trong cộng đoàn cùng với những ai đã thuộc về Người
hay sẽ thuộc về Người. Sự hiệp lễ kéo tôi ra khỏi bản thân để đến với Người và
đồng thời đi vào sự hợp nhất với tất cả mọi người Kitô hữu. Chúng ta trở thành “một thân thể”, một sự hiện hữu tan biến
vào trong nhau. Tình yêu đối với Thiên Chúa và tình yêu đối với tha nhân đã thực
sự kết hợp lại với nhau: Thiên Chúa hoá thành người, lôi kéo tất cả chúng ta về
với Người. Từ đó phải hiểu rằng tại sao agape lại trở thành một tên gọi của Bí tích Thánh Thể: trong
Thánh Thể, Tình Yêu (agape) của Thiên Chúa mang tính xác
phàm đến với chúng ta, để trong chúng ta và qua chúng ta tiếp tục thực hiện
công trình của Người. Từ nền tảng Kitô học mang tính bí tích, chúng ta có thể
hiểu cách đúng đắn giáo lý tình yêu của Đức Giêsu. Sự hướng dẫn của Người đưa từ
lề luật và các ngôn sứ, hướng về giới răn kép “mến Chúa và yêu người”, cơ sở của cả đời sống đức tin xuất
phát từ mệnh lệnh này, không chỉ là luân lý có thể hiện diện cách độc lập bên cạnh
niềm tin vào Chúa Kitô và sự hiện diện của Người trong bí tích: đức tin, phượng
tự và ethos (đạo đức) thấm
nhập vào nhau như một thực tại duy nhất tạo thành agape trong sự gặp gỡ với Thiên Chúa. Ở đây, việc đối kháng
thông thường giữa phượng tự và đạo đức tan biến đi: sự kiện “được yêu” và lại yêu thương những người
khác, nằm ngay trong chính “phượng tự”,
trong cộng đoàn Thánh Thể. Bí tích Thánh Thể, nếu như không đưa đến hành động
thực tiễn của tình yêu, sẽ tự nó trở thành vụn vặt, và ngược lại - như chúng ta
còn phải đào sâu hơn nữa – “giới luật”
yêu thương chỉ có thể trở thành khả thi, khi không chỉ là sự đòi buộc: tình yêu
có thể trở thành “bó buộc”, vì trước
đó tình yêu đã được ban tặng.
15. Từ đó chúng ta mới có thể hiểu
được các dụ ngôn lớn của Đức Giêsu. Người giàu có ăn chơi (x. Lc 16,19-31) từ
nơi bị nguyền rủa, van xin cho anh em ông được biết điều gì sẽ xảy đến cho ai không thèm nhìn đến những kẻ khốn
cùng. Có thể nói, Đức Giêsu dùng tiếng kêu cầu giúp đỡ này, để nói với chúng
ta, để cảnh cáo và để giúp chúng ta đi vào con đường ngay chính. Dụ ngôn người
Samaritanô nhân hậu (x. Lc 10,25-37) mang đến cho chúng ta hai giải thích quan
trọng. Cho đến nay, quan niệm “người thân
cận” trên căn bản chỉ thu hẹp vào những người đồng hương và những kẻ ngoại
bang định cư trên đất nước Israel, như thế chỉ căn cứ trên cộng đồng liên đới của
đất nước và của dân tộc, bây giờ ranh giới đó bị loại bỏ: bất cứ ai cần đến tôi
và tôi có thể giúp họ, đều là người thân cận của tôi. Ý niệm “người thân cận” đã trở nên phổ quát và
rất cụ thể. Dù có nới rộng đến tất cả mọi người, từ này không được trở thành
cách diễn tả một tình yêu xa vời không có gì ràng buộc, nhưng đòi buộc sự dấn
thân của tôi cách cụ thể ngay ở đây và bây giờ. Trách nhiệm của Hội Thánh phải
luôn luôn giải thích cách mới mẻ liên hệ từ xa đến gần trong đời sống thực hành
của các tín hữu của mình. Cuối cùng, cũng phải đặc biệt nhắc đến dụ ngôn tuyệt
vời về cuộc phán xét cuối cùng (x. Mt 25,31-46), trong đó tình yêu trở thành
tiêu chuẩn cho quyết định dứt khoát về giá trị và không giá trị của đời sống một
con người. Đức Giêsu tự đồng hoá mình với những người khốn cùng: những người
đói, những người khát, người xa lạ, người trần truồng, người bệnh và cả những
người đang ở trong ngục tù: “Mỗi lẫn
các ngươi làm cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi
đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40). Tình yêu đối với Thiên Chúa và
tình yêu đối với con người hòa lẫn vào nhau: trong những người bé mọn nhất
chúng ta sẽ gặp gỡ chính Đức Giêsu và trong Đức Giêsu chúng ta sẽ gặp gỡ Thiên
Chúa.
Tình yêu đối với Thiên Chúa và tình yêu đối
với con người.
16. Sau những suy luận về bản chất
tình yêu và ý nghĩa của nó trong niềm tin theo Thánh Kinh, vẫn còn một câu hỏi
kép liên quan đến thái độ của chúng ta: Chúng ta có thật sự yêu được Thiên
Chúa, Đấng là chúng ta không thể thấy và người ta có thể đòi buộc tình yêu hay
không? Có một trở ngại kép được nêu lên từ câu hỏi này để chống lại giới luật
kép của tình yêu: Không ai có thể thấy Thiên Chúa thì làm thế nào chúng ta có
thể yêu Người? Và câu khác: người ta không thể bắt buộc yêu, vì đó là một cảm
xúc, hoặc có hoặc không, chứ không thể do ý chí được. Hình như Thánh Kinh cũng
xác nhận vấn nạn thứ nhất, khi viết “Nếu
ai nói: Tôi yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối.
Vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến
Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1Ga 4,20). Nhưng bản văn hoàn toàn
không loại bỏ tình yêu đối với Thiên Chúa như là điều không thể - ngược lại,
tình yêu này rõ ràng bị đòi buộc trong mạch văn được trích dẫn trong Thư thứ nhất
của Thánh Gioan. Điều được nhấn mạnh chính là mối dây liên kết bất khả phân ly
của tình mến Chúa yêu người. Cả hai lệ thuộc vào nhau, đến độ lời quả quyết yêu
thương Thiên Chúa sẽ trở thành dối trá, khi con người đóng kín tâm hồn mình lại
trước tha nhân hay thù ghét họ. Người ta phải giải thích câu văn này của thánh
Gioan như sau: yêu người là một con đường dẫn đến gặp gỡ Thiên Chúa, và quay
lưng lại với tha nhân sẽ làm cho chúng ta ra mù loà không gặp được Người.
17. Trong thực tế, chưa có ai thấy
Thiên Chúa như chính Người thật sự. Nhưng dù vậy, Thiên Chúa không hoàn toàn vô
hình đối với chúng ta, và cũng không để cho chúng ta không thể tiếp cận với Người.
Thiên Chúa đã yêu chúng ta trước, Thư thứ nhất của thánh Gioan nói với chúng ta
như thế (x. 1Ga 4,10) và tình yêu của Thiên Chúa xuất hiện giữa chúng ta, trở
nên hữu hình qua việc Người “đã sai
Con Một đến thế gian, để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống” (1Ga
4,9). Thiên Chúa tự làm cho mình thành hữu hình: trong Đức Giêsu chúng ta có thể
chiêm ngắm được Chúa Cha (x. Ga 14,9). Thực vậy, sự hữu hình của Thiên Chúa thật
đa dạng. Trong lịch sử tình yêu mà Thánh Kinh tường thuật cho chúng ta, Người
đi đến với chúng ta, tìm cách chinh phục chúng ta mãi cho đến bữa Tiệc ly, mãi
cho đến trái tim bị đâm thâu trên thập giá, mãi cho đến những lần hiện ra của Đấng
Phục sinh và những kỳ công của Người, qua đó Người đã hướng dẫn Hội Thánh mới
được hình thành nhờ hoạt động của các Tông đồ. Và trong lịch sử tiếp đó của Hội
Thánh, Chúa cũng không vắng mặt: Người luôn luôn tìm đến chúng ta - qua những
con người mà Người soi sáng; qua Lời của Người, trong các bí tích, đặc biệt là
Bí tích Thánh Thể. Trong phụng vụ của Hội Thánh, trong lời cầu nguyện, trong cộng
đoàn sống động của các tín hữu, chúng ta cảm nghiệm được tình yêu Thiên Chúa, cảm
nhận sự hiện diện của Người và học cho biết nhận ra Người trong đời sống hằng
ngày của chúng ta. Người đã yêu chúng ta trước và tiếp tục yêu chúng ta trước;
chính vì thế mà chúng ta có thể đáp trả lại bằng tình yêu. Thiên Chúa không đòi
hỏi một tình cảm mà chúng ta không thể khơi lên trong chúng ta. Người yêu chúng
ta và cho chúng ta thấy và cảm nhận tình yêu của Người, và từ “bước trước” này của Thiên Chúa, tình
yêu nảy sinh trong chúng ta như một lời đáp trả. Trong tiến trình gặp gỡ này, một
điều cho chúng ta thấy rõ là tình yêu không phải chỉ là cảm xúc. Cảm xúc đến rồi
đi. Cảm xúc có thể là một tia sáng khai mở diệu kỳ, nhưng tổng thể của tình yêu
không phải như thế. Ban đầu chúng ta đã nói về tiến trình thanh luyện và trưởng
thành, nhờ đó eros đạt được mức trọn
vẹn, trở thành tình yêu theo ý nghĩa trọn vẹn của thuật ngữ. Để đạt được mức độ
trưởng thành của tình yêu, cần có sự tham gia mọi sức lực của con người, có
nghĩa là con người trong tổng thể của mình. Việc gặp gỡ với những biểu lộ hữu
hình của tình yêu Thiên Chúa có thể gợi lên trong chúng ta cảm giác hân hoan, đến
từ cảm nghiệm rằng mình được yêu. Việc gặp gỡ này đòi hỏi cả ý chí lẫn lý trí của
chúng ta. Việc nhận biết Thiên Chúa hằng sống là con đường đi đến tình yêu và
tiếng thưa vâng của ý chí chúng ta đối với ý muốn của Người kết hợp sự hiểu biết,
ý chí và cảm xúc trở thành một hành động trọn vẹn của tình yêu. Đây rõ ràng là
một tiến tình vẫn luôn chuyển động: tình yêu không bao giờ “kết thúc” và trọn vẹn được; tình yêu chuyển đổi trong suốt thời
gian sống, chín dần và nhờ đó luôn trung thành với chính mình. Idem velle atque idem nolle[9]
(ao ước một điều và không ao ước cũng một điều đó) là điệu cổ nhân định nghĩa nội
dung của tình yêu: người này trở nên giống người kia, điều này đưa đến một sự hợp
nhất của ý chí và tư tưởng. Lịch sử tình yêu giữa Thiên Chúa và con người bao
hàm sự kiện: sự hiệp thông ý chí tăng triển trong hiệp thông tư tưởng và tình cảm,
như thế ý muốn của chúng ta luôn trùng khớp với ý muốn của Thiên Chúa: ý muốn của
Thiên Chúa không phải là ý muốn xa lạ đối với tôi, mà các giới luật áp đặt cho
tôi từ bên ngoài, nhưng là ý muốn của chính tôi xuất phát từ kinh nghiệm cho thấy,
trong thực tế, Thiên Chúa hiện diện rất thâm sâu trong tôi hơn là tôi đối với
tôi[10]. Từ đó sự phó thác vào
Thiên Chúa càng ngày càng lớn lên và Thiên Chúa thực sự trở thành niềm vui cho
chúng ta (x. Tv 73[72], 23-28).
18. Tình yêu đối với tha nhân là
khả thi theo ý nghĩa được chính Thánh Kinh xác định và do Đức Giêsu công bố.
Tình yêu đó cốt tại chính điều này là, trong Thiên Chúa và cùng với Thiên Chúa,
tôi yêu người thân cận, cả khi tôi không thích hoặc không biết người đó. Điều
này chỉ trở nên khả thể từ cuộc gặp gỡ thâm sâu với Thiên Chúa, một sự gặp gỡ
trở thành hiệp thông ý muốn và thâm nhập vào trong tình cảm. Bấy giờ tôi học
cách nhìn người khác không phải chi bằng con mắt và tình cảm của riêng tôi,
nhưng từ nhãn giới của Đức Giêsu Kitô. Bạn của Người là bạn của tôi. Vượt qua
dáng vẻ bên ngoài, tôi thấy được nơi tha nhân sự chờ đợi một cử chỉ yêu thương,
một cử chỉ quan tâm mà tôi cho họ, không chỉ qua những cơ quan được tổ chức vì
mục đích ấy, chấp nhận họ như một nhu cầu chính trị. Tôi nhìn với đôi mắt của Đức
Kitô và có thể trao ban cho tha nhân nhiều hơn là những vật cần thiết bên
ngoài: đó là cái nhìn của tình yêu mà họ cần. Ở đây chúng ta thấy được tác động
hỗ tương cần thiết giữa tình yêu đối với Thiên Chúa và tình yêu đối với con người
mà Thư thứ nhất của Thánh Gioan nhấn mạnh dường ấy. Nếu cuộc đời tôi hoàn toàn
thiếu vắng việc tiếp xúc với Thiên Chúa, lúc ấy tôi sẽ nhìn người khác như một
kẻ xa lạ và không thể nhận ra hình ảnh Thiên Chúa nơi họ. Nhưng nếu tôi loại bỏ
hoàn toàn ra khỏi đời tôi việc hướng đến kẻ khác, để chỉ trở thành “đạo đức”, chỉ để thực hiện những “phận vụ tôn giáo” của tôi, thì liên hệ
với Thiên Chúa sẽ khô héo ở nơi tôi. Liên hệ này có thể “đúng đắn”, nhưng không có tình yêu. Chính sự sẵn sàng của tôi đến
với người thân cặn, để minh chứng tình yêu đối với họ, sẽ làm cho tôi dễ cảm
nghiệm Thiên Chúa. Chỉ có việc phục vụ tha nhân mở mắt cho tôi thấy điều Thiên
Chúa làm cho tôi và Người đã yêu tôi như thế nào. Các vị thánh - chúng ta nhớ đến
mẫu gương của chân phước Têrêsa thành Calcutta - múc lấy khả năng yêu thương của
họ đối với tha nhân một cách mới mẻ từ việc tiếp xúc với Chúa trong Bí tích
Thánh Thể và ngược lại sự tiếp xúc này trở thành hiện thực và sâu xa trong việc
phục vụ tha nhân. Mến Chúa và yêu người không thể tách rời nhau được. Đó chỉ là
một giới răn. Cả hai sống nhờ vào tình yêu của Thiên Chúa tuôn xuống chúng ta,
Đấng luôn yêu thương chúng ta trước. Như thế sẽ không còn là “giới răn” tự bên ngoài, buộc chúng ta
làm những gì không thể làm được, nhưng là một cảm nghiệm tình yêu được ban tặng
từ bên trong một tình yêu mà tự bản chất phải được tiếp tục chia sẻ Tình yêu lớn
lên nhờ tình yêu. Tình yêu mang tính thiên linh, vì từ Thiên Chúa mà đến và
giúp chúng ta kết hợp với Thiên Chúa, và trong tiến trình kết hợp này, giúp
chúng ta trở thành một “Chúng tôi”,
vượt thắng mọi chia rẽ và làm cho chúng ta nên một, để rồi cuối cùng “Thiên Chúa có toàn quyền trên muôn
loài” (1Cr 15,28).
PHẦN THỨ HAI: CARITAS
(TÌNH YÊU BÁC ÁI) – HOẠT ĐỘNG BÁC ÁI CỦA HỘI
THÁNH NHƯ LÀ MỘT “CỘNG ĐOÀN CỦA TÌNH YÊU”
Hoạt động bác ái của Hội Thánh như cách thể
hiện tình yêu mang đặc tính Chúa Ba Ngôi
19, Thánh Augustinô viết: “Nếu anh thấy tình yêu, anh thấy Ba Ngôi cực
thánh”[11].
Trong những suy tư trên dây, chúng ta đã hướng cái nhìn của chúng ta vào cạnh
sườn được khai mở của Đức Giêsu, nhìn vào Đấng “họ đã đâm thâu” (x. Ga 19,37; Dcr 12,10) và qua đó chúng ta
có thể nhận ra kế hoạch của Chúa Cha, Đấng vì yêu (x. Ga 3,16) đã sai Con yêu dấu
của mình đi vào trần gian, để cứu độ nhân loại. Trong cái chết trên thập tự,
như thánh sử Gioan nhấn mạnh, Đức Giêsu đã “trao ban thần khí” (x. Ga 19,30) - khởi đầu cho quà tặng là
Chúa Thánh Thần mà Người sẽ ban sau khi Phục Sinh (x Ga 20,22). Như thế lời hứa
về “những dòng nước hằng sống” được
ứng nghiệm, những dòng nước nhờ việc tuôn đổ Thánh Thần sẽ tuôn chảy từ nội tâm
của các tín hữu (x. Ga 7,38-39). Chúa Thánh Thần là sức mạnh bên trong làm hòa
nhịp trái tim của họ với trái tim của Đức Kitô và thúc đẩy họ yêu thương anh em mình như chính Đức
Kitô đã yêu họ, khi Người cúi xuống
để rửa chân cho các môn đệ (x. Ga 13,1-13) và đặc biệt khi Người hiến dâng mạng
sống của mình cho tất cả (x. Ga 13,1 ; 15,1a).
Thánh Thần cũng là một sức mạnh
chuyển đổi trái tim Cộng đoàn Giáo Hội, để Cộng đoàn trở thành chứng nhân cho
tình yêu của Chúa Cha, Đấng muốn làm cho nhân loại trở thành một gia đình duy
nhất trong Con của Người. Mọi hoạt động của Hội Thánh đều là sự biểu lộ một
tình yêu muốn tìm sự thiện toàn vẹn cho con người: Hội Thánh nỗ lực Phúc Âm hoá
con người qua lời và các bí tích - một công việc thường rất anh hùng khi thực
hiện trong lịch sử - và tìm cách phát triển con người trong những lĩnh vực khác
nhau của cuộc sống và sinh hoạt nhân văn. Như thế tình yêu trở thành việc phục
vụ mà Hội Thánh thực hiện để luôn đáp ứng với những đau khổ và nhu cầu kể cả những
nhu cầu vật chất của con người. Chính trên bình diện này, trên việc phục vụ
tình yêu mà tôi muốn dừng lại trong phần hai của Thông điệp.
Hoạt động bác ái như trách nhiệm của Hội
Thánh
20. Tình yêu tha nhân bắt nguồn từ
tình yêu Thiên Chúa trước tiên là trách nhiệm của từng người Kitô hữu, nhưng
cũng là trách nhiệm của toàn thể cộng đoàn Hội Thánh, đó là nghĩa vụ của mọi cấp:
từ cộng đoàn địa phương đến Giáo Hội cùng miền cho đến Hội Thánh hoàn vũ như một
tổng thể. Hội Thánh, trên phương diện là cộng đoàn, phải thực thi bác ái. Để được
như vậy đòi hỏi việc bác ái cũng có tổ chức như tiền đề cho một sự phục vụ
chung có trật tự. Trong Hội Thánh, ngay từ ban đầu, ý thức về trách nhiệm này
đã mang đặc tính xây dựng: “Tất cả
các tín hữu hợp nhất với nhau, và để mọi sự làm cửa chung. Họ đem bán đất đai của
cải, lấy tiền chia cho mỗi người tùy theo nhu cầu” (Cv 2,44-45). Thánh
Luca tường thuật cho chúng ta điều này, liên kết với một cách định nghĩa Hội
Thánh, mà ngài kể ra vài yếu tố căn bản là sự trung thành với “giáo lý của các Tông đồ”, kiên trì trong
sự “hiệp thông” (koinonia), với việc “bẻ
Bánh” và việc “cầu nguyện” (x. Cv
2,42). Yếu tố “hiệp thông” (koinonia) ở
đây không được triển khai thêm, nhưng được cụ thể hoá trong câu trích trên đây:
sự hiệp thông của họ nằm ở chỗ các tín hữu xem tất cả của cải đều là của chung
và giữa họ không có sự phân biệt giàu nghèo (x. Cv 4,32-37). Hình thức triệt để
của việc hiệp thông vật chất không thể giữ được trước sự tăng triển của Hội
Thánh. Nhưng điều cốt lõi vẫn còn tồn tại: giữa cộng đoàn các tín hữu không thể
có sự nghèo đói, như việc có người bị từ chối những nhu cầu cần thiết cho một
cuộc sống xứng đáng với nhân phẩm.
21. Việc tuyển chọn bảy người đàn
ông, là khởi điểm cho phận vụ phó tế (x. Cv 6,5-6), cho thấy một bước quyết định
trong việc tìm kiếm khó khăn những giải pháp để thực hiện nguyên tắc căn bản của
Hội Thánh. Ở đây nói về sự bất bình đẳng trong việc chăm sóc hằng ngày cho các
bà goá giữa nhóm nói tiếng Hípri và nhóm nói tiếng Hy Lạp trong Giáo Hội tiên
khởi. Các vị Tông đồ, mang trách nhiệm “cầu
nguyện” (Thánh lễ và phụng vụ) và “phục
vụ lời”, cảm thấy việc “phục vụ bàn
ăn” là quá tải đối với các ngài; các ngài quyết định vẫn tiếp tục với phận
vụ căn bản của mình và thiết lập một nhóm bảy người đàn ông cho một phận vụ
khác cần thiết trong Hội Thánh; dù vậy, nhóm này không phải chỉ làm một việc
thuần túy kỹ thuật là phân phát: họ là những người “đầy Thần Khí và khôn ngoan”
(x. Cv 6,1-6). Điều đó có nghĩa là, việc phục vụ xã hội mà họ lãnh nhận là một
phận vụ rất cụ thể, nhưng đồng thời cũng là một việc phục vụ thiêng liêng, và
chính vì thế, thừa tác vụ của họ thực sự là một thừa tác vụ thiêng liêng, thực
hiện một trách vụ cơ bản của Hội Thánh - đó là tình yêu tha nhân có tổ chức. Với
việc thiết lập nhóm bảy người này, công tác “diakonia” - việc phục vụ chung, có tổ chức, của tình yêu tha
nhân - từ nay được thiết lập trong cơ cấu nền tảng của chính Hội Thánh.
22. Theo dòng thời gian và với sự
bành trướng dần dần của Hội Thánh, việc thực thi bác ái, công tác Bác ái
(caritas), được xác định như một lĩnh vực căn bản cùng với việc ban phát bí
tích và việc rao giảng Lời Chúa: việc thực thi bác ái đối với các goá phụ và trẻ
mồ côi, với các tù nhân, với các bệnh nhân và người túng thiếu dưới mọi hình thức,
thuộc về bản chất của Hội Thánh cũng y như việc phục vụ bí tích và rao giảng
Phúc Âm. Hội Thánh không thể chểnh mảng trong việc thực thi bác ái cũng như chểnh
mảng với bí tích và Lời Chúa. Vài mẫu gương cũng đủ cho thấy điều này. Thánh
Giustinô tử đạo (khoảng năm 155) đã diễn tả, trong bối cảnh cử hành ngày Chúa
nhật của các tín hữu, công tác bác ái của họ, công tác này được nối kết với Bí
tích Thánh Thể: những người khá giả ban phát theo khả năng của họ, mỗi người
ban phát bao nhiêu tùy ý họ. Giám mục sử dụng lễ vật đó để nâng đỡ các trẻ mồ
côi, các bà góa và những người, vì bệnh hoạn hay những lý do khác, đang bị túng
quẫn, cũng như cho các tù nhân và cho những người ngoại kiều[12]. Đại văn sĩ Kitô giáo
Tertullien (khoảng năm 220) kể lại, việc chăm sóc của các Kitô hữu đối với những
người túng quẫn đủ mọi loại gây ngạc nhiên cho kẻ ngoại[13].
Và khi Thánh Inhaxiô thành Antiochia (năm 117) gọi “Giáo hội thành Roma” là “đứng
đầu trong tình yêu (agape)”[14] [14]
thì chắc chắn rằng, ngài sử dụng cách nói này để làm nổi bật hoạt động bác ái cụ
thể của Giáo Hội.
23. Trong bối cảnh này, cũng hữu
ích khi nêu một chỉ dẫn về cơ cấu pháp lý xa xưa của công tác bác ái của Hội
Thánh. Vào khoảng giữa thế kỷ thứ 4, ở Ai Cập có một hình thức mà người ta gọi
là “diakonie”; trong mỗi đan viện, có một tổ chức
chịu trách nhiệm cho mọi hoạt động hỗ trợ chăm sóc - đó là công tác bác ái caritas. Tờ khởi thủy cho đến cuối thế kỷ
thứ 6, ở Ai Cập, có một tổ chức với đầy đủ pháp lý, mà thẩm quyền thành phố
trao cho một phần lúa thóc để phân phát công khai. Ở Ai Cập, không những các
đan viện, mà cả từng giáo phận đều có tổ chức bác ái diakonie của mình - một cơ chế, được bành trướng không những ở Đông
Phương mà cả ở Tây Phương. Đức Giáo hoàng Grêgôriô Cả (604) đề cập đến tổ chức
bác ái của thành phố Naples; đối với thành phố Rôma, các tài liệu cho thấy tổ
chức bác ái bắt đầu từ thế kỷ thứ 7 và thứ 8; thế nhưng, từ xa xưa và có lẽ
ngay từ đầu, công tác chăm sóc kẻ nghèo và những người đau khổ là một phần đời
sống căn bản của Hội Thánh tại Rôma, theo những nguyên tắc của đời sống Kitô hữu
được trình bày trong sách Công vụ Tông đồ. Hình ảnh của vị phó tế Lôrenxô (258)
đã biểu lộ trách nhiệm này một cách sống động. Bài tường thuật bi thảm cuộc tử
đạo của ngài đã được Thánh Ambrôsiô (397) biết đến, cho chúng ta thấy chân dung
đích thực của thánh nhân. Ngài chịu trách nhiệm việc chăm sóc người nghèo trong
thành phố Rôma; sau khi các cộng sự của ngài cùng bị bắt với Đức Giáo hoàng,
người ta để cho ngài một thời gian để gom góp tài sản của Hội Thánh để trao lại
cho chính quyền thành phố. Lôrenxô phân phát tiền của đang có cho kẻ nghèo, rồi
dẫn họ đến trước mặt chính quyền và giới thiệu những người này chính là kho
tàng đích thực của Hội Thánh[15]. Người ta có thể suy nghĩ về
tính chất xác thực theo lịch sử của bài tường thuật này - nhưng trong ký ức của
người Kitô hữu, Thánh Lôrenxô vẫn được xem là nhân vật tiêu biểu cho công tác
bác ái của Hội Thánh.
24. Đề cập đến gương mặt của vị
hoàng đế Giulianô, người bội giáo (363), cũng có thể cho thấy tình yêu tha nhân
được tổ chức và thực hành đối với Giáo Hội thời cổ cốt thiết dường nào. Khi lên
sáu, chính Guilianô tận mắt chứng kiến đội bảo vệ hoàng cung sát hại cha, em và
thân nhân của mình và gán hành động tàn bạo này - đúng hay sai chưa rõ - cho
hoàng đế Constance, người tự cho mình là một Kitô hữu vĩ đại. Như thế niềm
tin Kitô giáo mãi mãi bị mất uy tín đối với ông. Khi lên ngôi hoàng đế, ông quyết
định tái lập ngoại giáo, tức là tôn giáo cổ của người La Mã, đồng thời canh tân
tôn giáo này để nó có thể trở thành sức mạnh nâng đỡ đế quốc. Trong ý định này,
ông phải vay mượn cách tổ chức của Kitô giáo. Ông thiết lập một hàng giáo phẩm
gồm các thượng phụ và tư tế. Các tư tế phải chăm lo đến tình yêu đối với Thượng
đế và tình yêu đối với tha nhân. Trong một lá thư[16],
ông đã viết, một điều gây ấn tượng cho ông là công tác bác ái của Giáo Hội. Và
do đó, ông cho là trong tôn giáo mới của ông, cần phải thiết lập một hoạt động
tương tự, song song với hệ thống bác ái của Hội Thánh. Ông tuyên bố, chính nhờ
hệ thống bác ái này mà những người “Galilê”
đã thu phục được quần chúng. Phải làm y như họ và còn hơn họ. Qua tuyên bố đó,
hoàng đế đã xác nhận việc thực thi bác ái, caritas, là một dấu chứng quyết định cho cộng đoàn Kitô hữu,
cho Hội Thánh.
21. Về điểm này, chúng ta nắm vững
hai nhận thức căn bản từ những suy luận của chúng ta:
a) Bản chất Hội Thánh được thể hiện
qua một trách nhiệm có ba mặt: rao giảng Lời Chúa (kerygma-martyria) cử hành các Bí tích (leiturgia), phục vụ bác ái (diakonia). Đó là những trách nhiệm lệ thuộc vào nhau và không
thể tách rời nhau được. Việc phục vụ bác ái đối với Hội Thánh không phải là một
cách thức hoạt động trợ giúp có thể giao cho người khác, nhưng nó thuộc về bản
chất của Hội Thánh, là một biểu lộ bản chất không thể từ bỏ được[17].
b) Hội Thánh là gia đình của
Thiên Chúa giữa trần gian. Trong gia đình, không được phép có những người túng
thiếu. Đồng thời caritas-agape phải
vượt qua ranh giới của Hội Thánh: dụ ngôn người Samaritanô nhân hậu vẫn phải là
tiêu chuẩn, đòi buộc tính phổ quát của tình yêu, một tình yêu luôn hướng đến những
người túng quẫn mà chúng ta “tình cờ”
gặp gỡ (x. Lc 10,31), dù họ là ai đi nữa. Có một mệnh lệnh đặc biệt trong Hội
Thánh không làm giảm đi tính phổ quát của giới răn tình yêu này - đó là, trong
Hội Thánh như là một gia đình, không được phép để một ai phải túng quẫn. Những
lời trích từ Thư gởi giáo đoàn Galát cũng nằm trong ý nghĩa này: “Vậy bao lâu còn thời giờ, chúng ta hãy làm
điều thiện cho mọi người, nhất là cho những anh em trong đại gia đình đức
tin” (Gl 6,10).
Công bằng và bác ái
26. Từ thế kỷ thứ 19 nổi lên
phong trào chống đối hoạt động bác ái của Hội Thánh, được tư tưởng Mácxít khai
triển một cách rõ ràng. Việc chống đối này cho rằng người nghèo không cần đến
những công tác bác ái, nhưng đòi hỏi công bằng. Những việc bác ái - việc bố thí
- trong thực tế chỉ là cách thức để người giàu bỏ qua việc tái lập công bằng,
ru ngủ lương tâm, bảo vệ vị trí riêng của mình và tước đi quyền lợi của người
nghèo. Thay vì củng cố nguyên trạng bằng các việc bác ái, nên tạo một trật tự
công bằng, trong đó mọi người được dự phần vào của cải trần thế và từ đó không
cần đến các việc bác ái. Có thể chấp nhận vài điểm trong lý luận này, nhưng nhiều
điểm lại sai lệch. Chắc chắn nguyên tắc nền tảng của Nhà nước là theo đuổi sự
công bằng và mục đích của một trật tự xã hội công bằng là bảo đảm cho mỗi người
có phần của mình trong số của cải của Cộng đoàn, trong sự tôn trọng nguyên tắc
phụ đới. Đó là điều mà các quốc gia Kitô giáo và học thuyết xã hội của Giáo Hội
luôn nhấn mạnh. Dựa theo lịch sử, vấn nạn về trật tự công bằng của tập thể bước
vào một giai đoạn mới cùng với việc kiến tạo xã hội công nghiệp vào thế kỷ thứ
19. Việc xuất hiện kỹ nghệ tân tiến đã khai tử trật tự xã hội cũ, và cùng với
khối người lao động bị lệ thuộc vào đồng lương, đã đưa đến việc thay đổi cách
triệt để việc tổ chức xã hội, trong đó tương quan giữa tư bản và công việc trở
thành vấn nạn quyết định, một vấn nạn, dưới hình thức này, cho đến lúc đó chưa
từng có. Các cơ chế sản xuất và tư bản từ nay trở thành quyền lực mới, nếu nằm
trong tay một số ít người, sẽ đưa đến tình trạng khối người lao động siêng năng
bị bóc lột quyền lợi và sẽ nổi dậy để chống lại.
27. Phải công nhận rằng các vị đại
diện Hội Thánh thật chậm trễ khi nhận ra vấn nạn về cơ cấu công bằng của xã hội
được đặt ra cách mới mẻ. Đã có những vị đi mở đường; tỷ dụ một trong các vị là
Đức Giám Mục Ketteler của địa phận Mainz (+1877). Để đáp lại những
nhu cầu cụ thể, đã xuất hiện các nhóm, những hiệp hội, những liên hiệp, những
phong trào, đặc biệt là những dòng tu mới, vào thế kỷ thứ 19, đã dấn thân chống
lại nghèo đói, bệnh tật và tình trạng thiếu thốn trong lĩnh vực giáo dục. Vào
năm 1891, Huấn quyền đã đưa ra Thông điệp Tân Sự (Rerum Novarum) của Đức Giáo hoàng Lêô XIII. Tiếp theo
vào năm 1931 là Thông điệp Năm thứ Bốn
Mươi (Quadragesimo Anno) của
Đức Giáo hoàng Piô XI. Đức chân phước Gioan XXIII đã ban hành Thông điệp Mẹ và Thầy (Mater et Magistra) vào
năm 1961. Trong Thông điệp Phát triển
các Dân tộc (Populorum
Progressio) (1967) và trong Tông Thư Năm thứ Tám Mươi đang đến (Octogesima Adveniens) (1971), Đức
Giáo hoàng Phaolô VI đã đề cập mạnh mẽ đến vấn đề xã hội, lúc đó đang nóng bỏng
cách đặc biệt tại Châu Mỹ La Tinh. Vị tiền nhiệm vĩ đại của tôi là Đức Giáo
hoàng Gioan Phaolô II đã để lại cho chúng ta bộ ba Thông điệp xã hội: Lao động (Laborem Exercens) (1981), Bận tâm về Vấn đề Xã hội (Sollicitudo Rei
Socialis) (1987), cuối cùng là Thông điệp Bách Chu niên (Centesimus Annus) (1991). Đối mặt với những
hoàn cảnh và những vấn đề mới, giáo huấn xã hội của Công giáo đã dần dần phát
triển; vào năm 2004, giáo huấn này được trình bày trong quyển “Tóm lược Giáo huấn Xã hội của Hội Thánh” do “Hội đồng Giáo hoàng về Công lý và Hoà bình”
xuất bản. Chủ thuyết Mácxít đã cho cuộc cách mạng thế giới và việc chuẩn bị cuộc
cách mạng này như là thần dược cho vấn đề xã hội: theo chủ thuyết này, nhờ cách
mạng, kéo theo việc tập thể hoá các phương tiện sản xuất, tất cả sẽ lập tức
thay đổi và sẽ tốt hơn. Giấc mộng này bị tan vỡ. Trong hoàn cảnh khó khăn mà
chúng ta đang sống qua việc toàn cầu hoá kinh tế, giáo huấn xã hội của Hội
Thánh sẽ trở thành điểm quy chiếu căn bản, đề nghị các định hướng có giá trị vượt
quá ranh giới Hội Thánh. Đối mặt với sự phát triển liên tục, các định hướng này
cần được trao đổi với những người thật sự quan tâm đến con người và thế giới.
28. Để xác định cách chính xác mối
liên hệ giữa sự dấn thân cần thiết cho công bằng và việc phục vụ cho tình yêu,
phải chú ý đến hai hoàn cảnh căn bản:
a) Trật tự công bằng của xã hội
và của Nhà nước là trách nhiệm chính yếu của chính trị. Một Nhà nước, nếu không
được tổ chức theo sự công bằng sẽ chỉ là một nhóm trộm cướp như Thánh Augustinô
có lần đã nói: “Remota itaque
iustitia quid sunt regna nisi magna latrocinia?”[18]. Việc phân biệt giữa
điều gì thuộc về César và điều gì thuộc về Thiên Chúa (x. Mt 22,21), có nghĩa
là sự phân biệt giữa Nhà nước và Hội Thánh hay, như Công đồng Vatican II nói, sự
độc lập của bình diện trần thế[19], thuộc về cơ cấu căn bản của
Kitô giáo. Nhà nước không được áp đặt tôn giáo, nhưng phải bảo đảm sự tự do,
cũng như sự hoà bình giữa các tín đồ của những tôn giáo khác nhau; về phần
mình, Hội Thánh như một biểu lộ xã hội của niềm tin Kitô giáo có sự độc lập của
mình và dựa trên nền tảng đức tin, sống hình thức cộng đoàn của mình mà Nhà nước
phải tôn trọng. Hai lĩnh vực phân biệt nhau, nhưng luôn liên kết hỗ tương với
nhau. Công bằng là mục đích và từ đó cũng là tiêu chuẩn nội tại của mọi thứ
chính trị. Chính trị không phải chỉ là kỹ thuật cho việc thiết lập các trật tự
công cộng: nguồn gốc và mục đích của chính trị chính là sự công bằng và công bằng
thuộc bản chất đạo đức. Vì thế Nhà nước luôn phải đối mặt với câu hỏi: phải thực
hiện sự công bằng ở đây và ngay bây giờ như thế nào? Nhưng câu hỏi này giả thiết
một câu hỏi khác căn bản hơn: công bằng là gì? Đây là một câu hỏi của lý trí thực
tiễn; để cho lý trí hoạt động cách đúng đắn, lý trí phải luôn được thanh luyện,
vì sự mù quáng về mặt đạo đức, xuất phát từ cám dỗ về lợi nhuận và quyền lực, sẽ
làm loá mắt lý trí, trở thành một mối nguy hiểm rất khó loại bỏ cách hoàn toàn.
Về điểm này, chính trị và đức tin
gặp nhau. Chắc chắn rằng đức tin có bản chất riêng của mình như là cuộc gặp gỡ
với Thiên Chúa hằng sống - một cuộc gặp gỡ khai mở cho chúng ta những chân trời
mới vượt quá bình diện lý trí của chúng ta. Nhưng đức tin cũng đồng thời là một
sức lực thanh luyện cho lý trí. Xuất phát từ quan điểm của Thiên Chúa, đức tin
giải thoát lý trí khỏi những mù quáng và nhờ đó giúp cho lý trí được tốt hơn. Đức
tin giúp lý trí có khả năng thực hiện công việc của mình tốt hơn và nhìn thấy
những gì đặc thù của mình rõ nét hơn. Chính đây là nơi giáo huấn xã hội của
Kitô giáo dấn thân vào: giáo huấn này không muốn tạo cho Hội Thánh một quyền lực
đứng trên Nhà nước; cũng không muốn áp đặt cho những người không cùng chia sẻ
niềm tin những quan điểm và những cách thức chỉ dành riêng cho những người có đức
tin; nhưng chỉ muốn đóng góp vào việc thanh luyện lý trí và giúp lý trí nhận ra
điều gì đúng đắn ở đây và lúc này để có thể thi hành.
Giáo huấn xã hội của Hội Thánh lập
luận dựa trên lý trí và luật tự nhiên, có nghĩa là từ những gì thích hợp với bản
tính con người. Giáo huấn này biết rằng đây không phải là trách nhiệm của Hội
Thánh để áp đặt giáo huấn này bằng chính trị: giáo huấn này chỉ muốn phục vụ và
giúp đỡ việc giáo dục lương tâm trong chính trị, giúp nhận thức rõ ràng những
đòi hỏi đích thực của công bằng, đồng thời sẵn sàng để hành động, cả khi điều
này có nghịch lại với những lợi ích riêng tư. Việc xây dựng một trật tự xã hội
và trật tự Nhà nước công bằng, nhờ đó mà mỗi người nhận được phần của mình, là
một trách nhiệm căn bản mà mỗi thế hệ phải luôn đặt ra một cách mới mẻ. Vì đây
là trách nhiệm căn bản của con người, nên Hội Thánh có bổn phận phải đóng góp
qua việc thanh luyện lý trí và huấn luyện đạo đức, để con người có thể mau mắn
nhận ra những đòi hỏi của công bằng và thực thi về mặt chính trị.
Hội Thánh không thể và cũng không
được phép tham gia vào cuộc tranh chấp chính trị để thực hiện một xã hội công bằng
nhất. Hội Thánh không thể và không được phép thay thế vị trí của Nhà nước,
nhưng không thể và không được phép đứng bên ngoài cuộc đấu tranh cho công bằng.
Hội Thánh phải dấn thân vào cuộc đấu tranh này bằng con đường lý luận dựa theo
lý trí và phải đánh thức những sức mạnh tinh thần, nếu không có những sức mạnh
này thì sự công bằng, vốn luôn đòi hỏi sự hy sinh, không thể được thực thi và
phát triển. Xã hội công bằng không thể là công trình của Hội Thánh, nhưng phải
được chính trị thực hiện. Dù vậy, cố gắng để có được sự công bằng nhờ việc soi
sáng nhận thức và ý chí cho những đòi buộc của các điều thiện hảo là điều Hội
Thánh rất tha thiết.
b) Tình yêu - caritas - vẫn luôn cần thiết, ngay cả
trong xã hội công bằng nhất. Không có một trật tự công bằng của Nhà nước nào có
thể xem công tác bác ái là thừa thãi. Ai muốn loại bỏ tình yêu thì cũng đồng thời
không xem con người là con người nữa. Vẫn luôn luôn có khổ đau cần đến sự an ủi
và trợ giúp. Vẫn luôn luôn còn có sự cô đơn. Vẫn luôn luôn còn có những trường
hợp thiếu thốn vật chất, nơi mà sự trợ giúp theo nghĩa thực hiện tình yêu tha
nhân là cần thiết[20]. Nhà nước nào muốn chu cấp
tất cả, tập trung tất cả về mình, cuối cùng cũng chỉ trở thành một cơ chế bàn
giấy, không thể bảo đảm những gì thiết yếu cho những người đau khổ - cũng như
cho mọi người: đó là sự quan tâm đầy tình thương cho từng cá nhân. Chúng ta
không cần một Nhà nước quy định và thống trị tất cả, nhưng ngược lại, một Nhà
nước thích ứng với nguyên tắc bổ trợ, công nhận và hỗ trợ cách quảng đại cho những
sáng kiến xuất phát từ những sức mạnh xã hội khác nhau và phối hợp tính bộc
phát để gần gũi với những con người cần được trợ giúp. Hội Thánh là một sức mạnh
sống động như thế. Trong Hội Thánh, năng động của tình yêu được triển khai từ
Thánh Thần của Đức Kitô đang hoạt động, tình yêu này mang đến cho con người
không những sự hỗ trợ vật chất, nhưng còn củng cố tinh thần và cứu chữa, là điều
còn cần thiết hơn các hỗ trợ vật chất. Định kiến cho rằng, những cơ cấu công bằng
sẽ xem các hoạt động bác ái là không cần thiết, thật sự che giấu một hình ảnh
con người theo hướng duy vật: một niềm tin lệch lạc, cho rằng con người chỉ sống
bằng “cơm bánh” (Mt 4,4; x. Đnl 8,3)
một quan niệm chà đạp con người và vì thế không nhận ra tính nhân bản đặc thù của
con người.
29. Bây giờ chúng ta có thể xác định
cách chính xác liên hệ một mặt giữa việc đấu tranh cho trật tự công bằng của
Nhà nước và xã hội và mặt khác là hoạt động bác ái có tổ chức của Hội Thánh.
Bây giờ thì rõ, việc xây dựng những cơ cấu công bằng không phải là trách nhiệm
trực tiếp của Hội Thánh, nhưng thuộc về chính trị - là bình diện của lý trí tự
chịu trách nhiệm. Hội Thánh trong vấn đề này chỉ có trách nhiệm gián tiếp thuộc
về mình là việc thanh luyện lý trí và gợi lên những động lực đạo đức mà không
can dự vào việc xây dựng những cơ cấu công bằng và lo cho các cơ cấu này hoạt động
lâu dài.
Trách nhiệm trực tiếp để hoạt động
cho một trật tự công bằng trong xã hội, ngược lại là điều đặc thù của người
giáo dân. Là công dân, họ được kêu gọi tham gia cá nhân vào đời sống cộng đồng.
Vì thế, họ không được từ chối tham gia vào “những
sáng kiến đa dạng và khác biệt trên những bình diện kinh tế, xã hội, luật pháp,
hành chính và văn hoá, tất cả bình diện này đều phục vụ cho việc thực thi có tổ
chức và cơ chế cho công ích”[21].
Trách nhiệm của người giáo dân định dạng cho đời sống xã hội theo một cách thức
đúng đắn, trong đó phải tôn trọng sự độc lập chính đáng và cộng tác với các
công dân khác tuỳ theo chuyên môn của mỗi người và trách nhiệm riêng của họ[22]. Cho dù những hình thức biểu
lộ đặc biệt của công tác bác ái của Hội Thánh không bao giờ bị lẫn lộn với hoạt
động của Nhà nước, thì điều rõ ràng là tình yêu phải là động lực sống động cho
toàn bộ đời sống của người giáo dân và từ đó in dấu trên hoạt động chính trị của
họ theo nghĩa một “tình yêu mang tính xã
hội”[23].
Những tổ chức bác ác của Hội
Thánh ngược lại trình bày - công tác đặc thù (opus proprium) của Hội Thánh, một trách nhiệm đi đúng với bản chất
của mình, trong dó Hội Thánh không phải cộng tác kiểu đứng bên lề, nhưng như là
một chủ thể trực tiếp chịu trách nhiệm hoạt động và thực hiện điều thích ứng với
bản chất của mình. Hội Thánh không được chuẩn chước cho mình khỏi việc thực hiện
công tác bác ái như là hoạt động tập thể có tổ chức của giáo dân, mặt khác,
không có hoàn cảnh nào, trong đó người ta không cần đến bác ái của từng người
Kitô hữu, chỉ vì, con người, vượt trên sự công bằng, luôn cần đến tình yêu.
Những cơ cấu đa dạng của việc phục vụ bác ái
trong bối cảnh xã hội ngày nay
30. Trước khi thử tìm cách định
nghĩa hình dạng đặc thù của các hoạt động Giáo Hội trong việc phục vụ con người,
tôi muốn nhìn hoàn cảnh chung trong việc phấn đấu cho công bằng và bác ái trong
thế giới ngày nay.
a) Ngày nay các phương tiện truyền
thông đại chúng đã làm cho hành tinh của chúng ta bé lại, bằng cách làm cho những
con người và những nền văn hoá khác biệt nhất mau chóng gần gũi với nhau. Cho
dù việc “sống chung” này đôi khi đưa
đến hiểu lầm và căng thẳng, nhưng có một thực tế là, người ta có cảm nhận nhu cầu
của con người cách trực tiếp hơn, nhất là lời mời gọi chia sẻ hoàn cảnh và những
khó khăn của họ. Mỗi ngày chúng ta càng ý thức hơn, có quá nhiều đau khổ trên thế
giới do sự thiếu thốn vật chất cũng như tinh thần gây nên, dù cho có nhiều tiến
bộ về mặt khoa học và kỹ thuật. Từ đó, ngay trong thời đại chúng ta, đòi hỏi cần
có sự sẵn sàng mới mẻ để giúp đỡ người thân cận đang túng quẫn. Công đồng
Vatican II đã nói những lời rõ ràng như sau: “Ngày nay, nhờ những phương tiện truyền thông hoàn thiện hơn, những khoảng
cách giữa con người có thể nói là đã vượt qua, [...] hoạt động bác ái có thể và
phải bao trùm tất cả mọi người và tất cả mọi nhu cầu”[24].
Mặt khác - và đây là một phương
diện vừa thách thức vừa động viên của việc toàn cầu hoá - chúng ta có trong tay
không biết bao nhiêu là phương tiện để sử dụng hầu đem lại sự trợ giúp nhân bản
cho anh chị em đang túng quẫn, đặc biệt là các hệ thống tân tiến để phân phát
lương thực và quần áo cũng như sẵn sàng cho các khả năng đón nhận và cung cấp
nơi trú ngụ. Như thế việc chăm sóc tha nhân vượt qua ranh giới các tập thể của
quốc gia, để lan rộng đến mọi chân trời của thế giới này. Công đồng Vatican II
đã nhận định cách đúng đắn: “Trong các dấu
chỉ của thời đại chúng ta, phải đặc biệt chú ý tới ý thức ngày gia tăng và
không thể tránh được về tình hình liên đới giữa các dân tộc”[25].
Những cơ quan của Nhà nước và các các hiệp hội nhân đạo hỗ trợ cho các sáng kiến
theo chiều hướng này, bằng cách trợ cấp hay giảm thuế cho những người này, còn
những người khác thì cho họ sử dụng phương tiện tài chính thích đáng. Với cách
thức này, sự liên đới được xã hội dân sự thể hiện vượt qua liên đới của từng cá
nhân một cách có ý nghĩa.
b) Trong hoàn cảnh này đã xuất hiện
và phát triển rất nhiều hình thức cộng tác giữa các cơ quan Nhà nước và Giáo Hội,
việc cộng tác này đã mang lại nhiều kết quả. Các cơ quan của Giáo Hội, nhờ sự
trong sáng trong hoạt động và việc chu toàn cách trung tín trách nhiệm làm chứng
cho tình yêu, có thể làm sinh động các cơ quan dân sự bằng tinh thần Kitô giáo
và đòi buộc một sự cộng tác hỗ tương làm lợi cho hiệu quả việc phục vụ bác ái[26]. Trong liên hệ này, đã có
nhiều tổ chức được thành lập với mục đích bác ái và từ thiện, để đối mặt với những
vấn đề chính trị và xã hội hiện hành, có thể đạt được những giải quyết thoả
đáng trong lĩnh vực nhân đạo. Một hiện tượng quan trọng trong thời đại chúng ta
là việc xuất hiện và phát triển nhiều hình thức thiện nguyện khác nhau, đảm nhận
rất nhiều công tác phục vụ đa dạng[27].
Ở đây, tôi muốn nói một lời đặc biệt để công nhận và biết ơn tất cả những người
tham gia vào những hình thức khác nhau của công tác này. Việc triển khai một sự
dấn thân như thế đối với giới trẻ là một trường học cho cuộc sống, đào tạo tình
liên đới và sự sẵn sàng, không phải chỉ ban tặng một cái gì, nhưng là chính bản
thân mình. Thứ văn hóa đối kháng của sự chết, tỷ như bộc lộ qua ma túy, sẽ chạm
trán với tình yêu, một thứ tình yêu không đi tìm chính bản thân, nhưng sẵn sàng
“tự đánh mất mình đi” cho kẻ khác (x.
Lc 17,33 tt), tự minh chứng mình là một văn hoá của sự sống.
Những hình thức mới mẻ của những
hoạt động bác ái phát sinh trong Hội Thánh Công giáo và trong những Giáo hội
khác cũng như trong các cộng đoàn, những hình thức cũ cũng được phát triển với
sức lực mới – những hình thức, trong đó thường có sự nối kết thật tốt đẹp giữa
việc Phúc Âm hoá và hoạt động bác ái. Tôi muốn công khai xác nhận ở đây điều mà
vị tiền nhiệm vĩ đại của Tôi là Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã viết trong
Thông điệp Bận tâm về Vấn đề Xã hội
(Sollicitudo Rei Socialis)[28],
khi ngài tuyên bố Giáo Hội Công giáo luôn sẵn sàng cộng tác với các tổ chức bác
ái của các Giáo hội và cộng đoàn Giáo hội, vì tất cả chúng ta hoạt động từ một
động lực nền tảng và có cùng mục đích trước mắt: một chủ nghĩa nhân bản đích thực,
chủ thuyết này công nhận hình ảnh Thiên Chúa nơi con người và muốn giúp họ có
được một cuộc sống xứng đáng với phẩm giá này. Thông điệp Xin cho họ nên một (Ut Unum Sint) nhấn
mạnh một lần nữa, cần có một tiếng nói chung của các Kitô hữu và sự dấn thân của
họ cho sự phát triển một thế giới tốt đẹp hơn, để “tôn trọng các quyền lợi và nhu cầu của mọi người, nhất là của những
người nghèo, những kẻ thấp kém, đạt được thành công”[29]. Ở đây, tôi muốn bộc
lộ niềm vui của tôi vì điều ao ước này đã gặp được nhiều âm vang trong toàn thế
giới qua rất nhiều sáng kiến.
Khía cạnh đặc biệt của công tác bác ái của Hội
Thánh.
31. Việc gia tăng nhiều tổ chức dấn
thân cho con người trong những nhu cầu khác biệt, cuối cùng được giải thích như
sau: mệnh lệnh của tình yêu tha nhân đã được Đấng Sáng Tạo khắc ghi trong bản
tính con người. Dù vậy, việc gia tăng cũng là kết quả sự hiện diện của Kitô
giáo giữa trần gian, sự hiện diện này vẫn luôn đánh thức mệnh lệnh thường bị lu
mờ trong dòng lịch sử và giúp đem lại kết quả: cuộc canh tân ngoại giáo do
Hoàng đế Giulianô, kẻ bội giáo, là một tỉ dụ xa xưa cho hiệu quả đó. Trong ý
nghĩa này, sức mạnh của Kitô giáo vươn ra khỏi ranh giới niềm tin Kitô giáo. Điều
quan trọng hơn nữa là hoạt động bác ái của Kitô giáo giữ được sức mạnh soi sáng
trọn vẹn của mình, chứ không bị tan biến như một dạng hỗ trợ chung chung. Vậy
thì đâu là những yếu tố nền tảng tạo thành bản chất của hoạt động bác ái thuộc
Kitô giáo và thuộc Giáo Hội?
a) Theo mẫu gương trong dụ ngôn
người Samaritanô nhân hậu, hoạt động bác ái mang đặc tính Kitô giáo trước hết
là lời đáp trả nhu cầu khẩn cấp trực tiếp trong một hoàn cảnh cụ thể. Phải cho
người đói lương thực, người trần truồng quần áo, bệnh nhân phải được chữa trị,
phải thăm viếng tù nhân... Các tổ chức bác ái của Hội Thánh - khởi đầu với các
cơ quan caritas (thuộc giáo phận, quốc
gia và quốc tế) - phải thực hiện tất cả khả năng của mình, để sẵn sàng có các
phương tiện, nhưng nhất là các nhân sự, để có thể đảm nhận những trách nhiệm
như thế. Ai muốn phục vụ cho những người đau khổ, cần phải được đào tạo có nghiệp
vụ: những người trợ giúp phải được đào tạo, để họ thực hiện những hành động
đúng đắn vào đúng lúc và tiếp tục chăm sóc. Khả năng nghề nghiệp là điều cần
thiết đầu tiên và căn bản, thế nhưng duy chỉ như thế thì không đủ. Ở đây nhắm đến
con người, và con người luôn cần đến một cái gì hơn là sự chăm sóc đúng đắn đầy
kỹ thuật. Họ còn cần đến tình người. Họ cần đến sự quan tâm của con tim. Đối với
tất cả những ai hoạt động trong các tổ chức bác ái của Hội Thánh, phải chú tâm
đặc biệt để không những thực hiện những gì cần thiết đúng lúc, nhưng còn phải
quan tâm đến kẻ khác bằng con tim, để người này có thể cảm nhận được sự phong
phú của phẩm giá nhân bản của họ. Vì thế, những người trợ giúp này, ngoài việc
đào tạo nghề nghiệp, còn cần đến việc đào luyện con tim: họ cần được hướng dẫn
đến gặp gỡ Thiên Chúa trong Đức Kitô, cuộc gặp gỡ này sẽ đánh thức tình yêu
trong họ và mở rộng con tim của họ cho tha nhân, đến độ tình yêu tha nhân đối với
họ không còn là một giới răn được thiết đặt tự bên ngoài, nhưng đó là bước tiếp
nối của đức tin, chính đức tin đó: hoạt động trong tình yêu (x. Gl 5,6).
b) Hoạt động bác ái Kitô giáo phải
độc lập khỏi các đảng phái và ý thức hệ. Hoạt động này không phải là phương tiện
để thay đổi bộ mặt trần gian được định hướng theo ý thức hệ và cũng không để phục
vụ cho các chiến lược trần thế, nhưng để thực hiện tình yêu tại đây và bây giờ
mà con người luôn cần đến. Thời đại mới, nhất là từ thế kỷ 19, bị các biến thể
của một thứ triết học về tiến bộ thống trị, mà hình thức triệt để nhất là chủ
thuyết Mácxít. Lý thuyết bần cùng hoá thuộc về chiến lược của thuyết này, Chủ
thuyết này cho rằng ai giúp đỡ con người trong hoàn cảnh dưới một sự lãnh đạo bất
công, thì cũng đồng nghĩa với việc phục vụ cho hệ thống bất công hiện hành, làm
cho hệ thống có vẻ như có thể chịu đựng được, ít nhất là đến một mức độ nào đó.
Như thế gần như là ngăn chặn khả năng cách mạng và qua đó cũng ngăn chặn luôn
việc chuyển đổi để đạt một thế giới tốt đẹp hơn. Vì thế việc dấn thân vào bác
ái bị tố giác và tấn công như củng cố cơ chế. Trong thực tế, đó là một thứ triết
học vô nhân đạo. Con người hiện đang bị tế hiến cho một thần Moloch của tương
lai, mà việc xây dựng tương lai này còn quá mù mờ. Thực ra, không thể nhân bản
hoá thế giới khi từ chối hành động cách nhân đạo ở đây và bây giờ. Để có thể đạt được một thế giới tốt đẹp hơn,
người ta phải thực hiện điều thiện với tất cả sự đam mê ở nơi có thể thực hiện
được, độc lập khỏi mọi chiến lược và chương trình của đảng phái. Chương trình của
người Kitô hữu – chương trình của người Samaritanô nhân hậu, chương trình của Đức
Giêsu - là “trái tim biết nhìn”. Trái
tim này nhìn ra nơi nào cần tình yêu và hoạt động dựa theo đó. Khi hoạt động
bác ái của Hội Thánh được thực hiện như sáng kiến của tập thể, thì kế hoạch, dự
đoán và sự cộng tác với những tổ chức khác tương tự cần thiết hơn là sự tự phát
của cá nhân.
c) Ngoài ra, tình yêu bác ái thực
tiễn không phải là phương tiện cho điều mà ngày nay người ta gọi là chiêu dụ
tín đồ (proselytismus). Tình yêu thì nhưng không; tình yêu không được thực hiện
để đạt mục đích khác[30]. Điều này không có nghĩa
công việc bác ái phải để Thiên Chúa và Đức Kitô qua một bên. Chủ đích là nhắm đến
con người trọn vẹn. Thường thì việc vắng bóng Thiên Chúa là nguyên do sâu xa của
đau khổ. Ai hoạt động bác ái nhân danh Hội Thánh, không bao giờ tìm cách áp đặt
lên kẻ khác niềm tin của Hội Thánh: Người đó phải biết rằng tình yêu trong sự
thuần khiết và vô tư là chứng cứ tốt nhất về Thiên Chúa, Đấng mà chúng ta tin
và thúc đẩy chúng ta yêu thương. Người Kitô hữu biết lúc nào có thể nói về
Thiên Chúa, lúc nào thì nên thinh lặng và chỉ nói về tình yêu mà thôi. Người đó
biết, Thiên Chúa là Tình Yêu (x. 1Ga 4,8) và ngay lúc này Người đang hiện diện
trong lúc tình yêu được thực hiện chứ không phải bất cứ điều gì khác. Người đó
biết - để trở lại với câu hỏi được đặt ra ở trên - khinh thị tình yêu là khinh
thị Thiên Chúa và con người - đó là cố gắng vượt ra ngoài Thiên Chúa. Vì thế,
việc bảo vệ Thiên Chúa và con người cách tốt nhất nằm ngay trong tình yêu.
Trách nhiệm của các tổ chức bác ái của Hội Thánh là củng cố ý thức này nơi các
đại diện của mình, để họ trở thành chứng nhân của Đức Kitô qua hành động cũng
như lời nói, sự thinh lặng và mẫu gương của họ.
Những người có trách nhiệm cho hoạt động bác
ái của Hội Thánh
32. Cuối cùng, chúng ta phải hướng
đến những người chịu trách nhiệm các hoạt động bác ái của Hội Thánh. Trong các
suy luận cho đến bây giờ, một điều nổi bật rõ ràng là chủ thể đích thực của những
tổ chức khác nhau của Công giáo, đảm nhiệm một công tác bác ái, là chính Hội
Thánh trên các bình diện, bắt đầu từ các giáo xứ đến các Giáo Hội từng vùng, từng
miến, cho đến Giáo Hội toàn cầu. Vì thế mà Đấng Tiền nhiệm đáng kính của tôi là
Đức Giáo hoàng Phaolô VI đã thiết lập “Hội
đồng Giáo hoàng Đồng tâm” (Cor Unum)
như là cơ quan của Toà Thánh chịu trách nhiệm để định hướng và phối hợp các tổ
chức và hoạt động bác ái của Hội Thánh. Cơ cấu Giám mục của Hội Thánh đáp ứng
được điều này; trong các giáo phận, các giám mục, với tư cách là những vị kế
nhiệm các tông đồ, phải mang lấy trách nhiệm đầu tiên là thực hiện cho đến hôm
nay chương trình được chỉ dẫn trong sách Công vụ Tông đồ (x. Cv 2,42-44): Hội
Thánh như là gia đình của Thiên Chúa, hôm nay cũng như hôm qua, phải là nơi trợ
giúp lẫn nhau và đồng thời cũng là nơi sẵn sàng phục vụ cho những người cần được
giúp đỡ, cả khi họ không thuộc về Hội Thánh. Trong nghi thức truyền chức giám mục,
trước nghi thức thánh hiến, có vài câu hỏi được đặt ra cho ứng viên trong đó
nói lên những yếu tố căn bản cho nhiệm vụ và những bổn phận của thừa tác vụ
tương lai của ngài. Qua câu trả lời, vị tiến chức hứa cách công khai “vì danh Chúa, phải tiếp đón kẻ nghèo, những
người vô gia cư cũng như mọi người cần được giúp đỡ và phải luôn nhân từ đối với
họ”[31].
Bộ Giáo Luật, trong các điều khoản về thừa tác vụ Giám mục, không nói rõ công
tác bác ái như lĩnh vực riêng của hoạt động giám mục, nhưng nói chung về trách
nhiệm của giám mục là phối hợp nhiều công tác tông đồ khác nhau trong sự tôn trọng
đức tính riêng của mỗi công tác[32]. Quyển Kim chi nam về Công tác Mục vụ của Giám mục đã
triển khai cụ thể trách nhiệm bác ái như phận vụ thuộc bản chất của toàn thể Hội
Thánh và của vị giám mục trong địa phận của mình[33]
và nhấn mạnh rằng việc thực thi bác ái là một hoạt động của Hội Thánh, hoạt động
này được trình bày như một phần bản chất bổn phận căn bản của ngài, tương tự
như việc phục vụ cho Lời Chúa và các bí tích[34].
33. Trên đây đã nói về điểm căn bản
liên quan đến những người cộng tác thực hành công việc bác ái trong Hội Thánh:
họ không được phép rút cảm hứng từ những ý thức hệ để làm cho thế giới tốt đẹp
hơn, nhưng phải được đức tin hướng dẫn, đức tin sẽ hoạt động trong đức ái (x.
Gl 5,6). Trước hết họ phải là những con người được tình yêu của Đức Kitô đụng
chạm tới; những con người mà trái tim họ đã được Đức Kitô chinh phục bằng tình
yêu và nơi đó Người đã khơi dậy tình yêu tha nhân. Lời hướng dẫn của họ sẽ là
câu rút từ Thư thứ hai gởi giáo đoàn
Côrintô: “tình yêu Đức Kitô Thúc bách tôi” (2Cr 5,14).Việc nhận
thức rằng, trong Đức Kitô, Thiên Chúa tự hiến bản thân mình cho chúng ta cho đến
chết, phải đưa chúng ta đến quyết định, không còn sống cho chính mình nữa,
nhưng cho Người và cùng với Người cho những kẻ khác. Ai yêu Đức Kitô, thì cũng
yêu Hội Thánh và muốn rằng Hội Thánh phải luôn là cách biểu lộ và là cơ quan
tình yêu của Người. Người cộng tác của bất cứ tổ chức bác ái Công giáo nào đều
muốn làm việc với Hội Thánh và từ đó với giám mục, để tình yêu của Thiên Chúa
tuôn trào khắp thế giới. Họ muốn, qua việc tham gia vào công tác bác ái của Hội
Thánh, trở thành chứng nhân của Thiên Chúa và của Đức Kitô và nhờ đó thực hiện
điều thiện hảo cho tha nhân mà không có một chút ý đồ nào.
34. Việc khai mở nội tâm cho chiều
kích Công giáo của Hội Thánh đòi buộc người cộng tác phải sẵn sàng đồng thuận với
các tổ chức khác trong công tác dưới nhiều hình thức của nhu cầu; điều này phải
được thực hiện trong sự tôn trọng tính cách đặc thù của phận vụ mà Đức Kitô
đang mong chờ nơi các môn đệ của Người. Trong bài thánh thi ca ngợi tình yêu
(1Cr 13), Thánh Phaolô dạy chúng ta, tình yêu còn hơn là một hoạt động đơn thuần: “Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà
bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt mà không cô đức mến,
thì cũng chẳng ích gì cho tôi” (c. 3). Bài Thánh thi này phải là (Hiến
chương) Magna Carta cho mọi công tác của Hội Thánh; trong Thánh thi này cô đọng
tất cả những suy tư mà tôi muốn triển khai trong Thông điệp này về tình yêu. Hoạt
động thực tiễn sẽ còn rất ít, nếu trong đó tình yêu đối với con người chưa được
cảm nghiệm, tình yêu này được nuôi dưỡng bằng cuộc gặp gỡ với Đức Kitô. Việc
tham gia cá nhân và nội tâm vào nhu cầu và đau khổ của kẻ khác là một cách hiến
tặng chính bản thân tôi cho họ: để quà tặng không làm hạ phẩm giá người nhận,
không những tôi trao một cái gì của tôi, nhưng còn cho đi chính bản thân tôi,
như một nhân vị hiện diện trong quà tặng đó.
35. Cách phục vụ đúng đắn này sẽ
làm cho người trợ giúp khiêm tốn hơn. Họ không đặt mình vào vị trí cao hơn người
khác, cho dù người đó ngay trong giây phút này đang ở trong hoàn cảnh thật cực
khổ. Đức Kitô đã chọn vị trí cuối cùng trong trần gian - đó là thập tự - và
ngay chính trong sự khiêm hạ triệt để, Người đã cứu chúng ta và giúp chúng ta
tiến tới. Ai đứng trong vị thế giúp đỡ kẻ khác, phải nhận biết rằng, chính lúc
đó họ cũng được giúp đỡ và
khả năng giúp đỡ của bản thân không là công đức và sự nghiệp của bản thân.
Trách nhiệm này là ân sủng. Một người càng phục vụ cho kẻ khác, thì họ càng hiểu
lời của Đức Kitô và áp dụng cho chính mình: “Chúng tôi chỉ là những đầy tớ vô dụng” (Lc 17,10) Vì họ nhận
biết rằng, không phải vì phận vụ của một kẻ cả hay vì một hiệu quả lớn lao cho
cá nhân, nhưng vì Chúa đã ban cho họ như một hồng ân. Đôi khi nhu cầu quá lớn
và sự hạn hẹp của hoạt động mình làm cho họ rơi vào cơn cám dỗ nản lòng. Nhưng
chính lúc đó, họ được giúp đỡ để biết rằng cuối cùng họ chỉ là công cụ trong
bàn tay của Chúa, họ sẽ được giải thoát khỏi sự kiêu căng là phải tự mình và khả
năng của mình làm cho thế giới này tốt đẹp hơn. Trong sự khiêm tốn, họ sẽ làm
những gì họ có thể thực hiện và trong khiêm tốn đặt vào tay Chúa tất cả những
điều khác. Thiên Chúa điều khiển thế giới chứ không phải chúng ta. Chúng ta chỉ
phục vụ Người trong khả năng và sức lực mà Người ban cho chúng ta. Với sức lực
này, chúng ta thực hiện những gì chúng ta có thể làm, đó là mệnh lệnh mà một
người tôi tớ đúng đắn của Đức Giêsu Kitô vẫn tuân giữ khi hoạt động: “Tình yêu của Đức Kitô thúc bách chúng
tôi” ( 2Cr 5,14).
36. Kinh nghiệm về vô vàn nhu cầu
một mặt có thể đẩy chúng ta vào ý thức hệ, có tham vọng làm điều mà việc điều
khiển vũ trụ của Thiên Chúa hình như không nhắm tới - việc giải quyết cách phổ
quát tất cả mọi vấn đề. Mặt khác, nó có thể trở thành cơn cám dỗ thất vọng, vì
hình như không thể đạt được gì cả. Trong hoàn cảnh này, việc liên hệ sống động
với Đức Kitô là một trợ lực quyết định, để có thể ở trong con đường đúng đắn:
không rơi vào sự kiêu căng coi thường con người, sự kiêu căng này sẽ không giúp
xây dựng gì cả nhưng phá hoại thì nhiều, và cũng không nằm trong sự thất vọng
ngăn trở việc thực thi bác ái và phục vụ con người. Cầu nguyện là cách thế tìm
được sức mạnh mới mẻ từ Đức Kitô; ở đây cầu nguyện trở thành một đòi hỏi khẩn cấp
cụ thể. Ai cầu nguyện sẽ không phung phí thời giờ của mình, cả khi hoàn cảnh thật
khẩn cấp và hình như thúc bách chúng ta phải hành động. Sự đạo đức không làm
suy yếu cuộc chiến đấu chống lại nghèo khổ hay sự cùng cực của tha nhân. Chân
phước Têrêsa thành Calcutta là một mẫu gương tỏ tường cho điều này, thời gian
dành cho Thiên Chúa trong kinh nguyện không những không làm phương hại đến hoạt
động cụ thể của tình yêu tha nhân, nhưng trong thực tế lại là nguồn bất tận cho
hoạt động đó. Trong lá thư Mùa Chay năm 1996, vị chân phước này đã viết cho các
cộng sự viên của mình trong hàng giáo dân: “Chúng
ta cần đến liên hệ nội tâm với Thiên Chúa trong đời sống hằng ngày của chúng
ta. Nhưng làm thế nào chúng ta đạt được điều đó? Chỉ qua cầu nguyện”.
37. Đây là lúc tái xác định sự
quan trọng của việc cầu nguyện đối mặt với chủ thuyết duy hoạt động và chủ thuyết
tục hoá đang hăm dọa nhiều Kitô hữu tham gia vào công tác bác ái. Người Kitô hữu
cầu nguyện không có ý định thay đổi chương trình của Thiên Chúa, hay hoàn thiện
điều Thiên Chúa quan phòng. Đúng hơn, họ tìm cách gặp gỡ Cha của Đức Giêsu Kitô
và khẩn cầu, để Người hiện diện trong họ với sự an ủi của Chúa Thánh Thần và
trong công tác của họ. Việc phó thác vào Thiên Chúa và sự tùng phục ý muốn của
Người ngăn chặn sự hạ giá con người và gìn giữ họ khỏi ảnh hưởng của những lý
thuyết cuồng tín và khủng bố. Thái độ tôn giáo đúng đắn tránh cho con người khỏi
trở thành quan tòa của Thiên Chúa và tố cáo người đã để cho sự khốn cùng tồn tại,
không động lòng thương xót với các thụ tạo của Người. Nếu như người nào nại đến
quyền lợi của con người để chống lại Thiên Chúa - thì họ sẽ dựa vào ai, khi
hành động của con người tỏ ra bất lực?
38. Thực vậy, ông Gióp than van với
Thiên Chúa về những đau khổ mà ông không thể hiểu được và ngay trong lúc này
xem ra không công bằng mấy, đang xảy ra trong thế giới. Ông đã nói trong đau khổ: “Ai sẽ cho tôi biết phải tới đâu để tìm Người
và làm sao đến được nơi Người ngự? … Tôi sẽ biết những điều Người trả lời cho
tôi, và hiểu được những gì Người nói. Với tôi, Người có phải đem hết
sức ra tranh luận?... ‘Vì thế đứng trước nhan Người tôi đâm sợ hãi, chỉ nghĩ đến
Người là đã thấy khiếp kinh. Thiên Chúa làm cho tôi nhát đảm, Đấng
Toàn Năng khiến tôi phải kinh hoàng’” (23, 3.5-6.15-16). Thường chúng
ta không thể thấy lý do tại sao Thiên Chúa rút tay lại, thay vì giương ra.
Nhưng Người không ngăn cấm chúng ta thốt lên như Đức Giêsu trên thập giá: “Lạy Thiên Chúa của con! Lạy Thiên Chúa của
con! sao Ngài bỏ rơi con” (Mt 27,46). Trong đối thoại khi cầu nguyện,
chúng ta vẫn kiên vững với câu hỏi này trước nhan thánh Người: “Lạy Chúa, hỡi Đấng Thánh và là Đấng Chân Thật,
Ngài còn trì hoãn đến bao giờ” (Kh 6,10). Thánh Augustinô cho chúng ta
câu trả lời xuất phát từ niềm tin đối với đau khổ của chúng ta: “Si comprehendis, non est Deus” - (Nếu anh hiểu được Người, Người sẽ không còn
là Thiên Chúa nữa)[35].
Phản kháng của chúng ta không muốn thách thức Thiên Chúa, không xúc phạm đến
Người để cho rằng trong Người còn có sai lầm, yếu đuối và dửng dưng. Người tin
không thể nghĩ rằng Thiên Chúa bất lực hay là Người “đang ngủ” (x. 1V 18,27). Trái lại, tiếng kêu than của chúng ta,
cũng như tiếng kêu than của Đức Giêsu trên thập giá, là sự xác nhận bên ngoài
và sâu xa nhất của niềm tin chúng ta vào quyền năng tối cao của Thiên Chúa. Thật
vậy người Kitô hữu, cho dù có tất cả sự khó hiểu và hoang mang của thế giới
chung quanh mình, vẫn tiếp tục tin vào “lòng
nhân hậu và sự yêu thương của Thiên Chúa đối với con người” (Tt 3,4).
Cho dù họ cũng như mọi người khác chìm ngập trong sự phức tạp bi đát của các sự
kiện lịch sử, họ vẫn đứng vững trong hy vọng rằng Thiên Chúa là một Người Cha
và yêu thương chúng ta, dù sự thinh lặng của Người thật khó hiểu đối với chúng
ta.
39. Tin, cậy và mến đều lệ thuộc
vào nhau. Niềm cậy trông bộc lộ một cách thực tiễn trong nhân đức kiên nhẫn,
nhân đức này không lơ là trong việc thiện cả khi phải đối mặt với điều xem ra
không được thành công, và trong nhân đức khiêm nhường, là nhân đức đón nhận mầu
nhiệm của Thiên Chúa và vẫn phó thác vào mầu nhiệm này ngay cả khi rơi vào mù tối.
Đức tin chỉ cho chúng ta Thiên Chúa, Đấng đã ban Con của Người cho chúng ta và
ban cho chúng ta niềm xác tín bất khuất: Thiên Chúa là tình yêu! Với cách thức
đó, Người biến đổi sự mất kiên nhẫn và nghi ngờ của chúng ta thành sự xác tín của
niềm cậy trông rằng Thiên Chúa gìn giữ thế giới trong bàn tay của Người và Người
sẽ thắng, mặc cho mọi thứ u tối, như sách Khải Huyền cho thấy ở cuối sách qua
những hình ảnh rất đánh động. Niềm tin, ý thức tình yêu của Thiên Chúa tự tỏ lộ
nơi trái tim bị đâm thâu của Đức Giêsu trên thập giá, niềm tin đến phiên mình sẽ
làm nảy sinh tình yêu. Tình yêu là ánh sáng - cuối cùng là ánh sáng duy nhất –
sẽ làm cho một thế giới đen tối được sáng trở lại và ban cho chúng ta sự can đảm
để sống và để hành động. Tình yêu có thể thực hiện như thế, và chúng ta cũng có
khả năng để thực hiện tình yêu vì chúng ta được tạo dựng theo hình ảnh của
Thiên Chúa. Với Thông điệp này, tôi muốn mời anh chị em sống tình yêu và nhờ đó
đem ánh sáng của Thiên Chúa vào trong thế giới này.
KẾT LUẬN
40. Cuối cùng, chúng ta hãy nhìn
ngắm các vị thánh, là những Đấng đã thực hiện bác ái cách gương mẫu. Một cách đặc
biệt, chúng ta nghĩ đến Thánh Martinô thành Tours (397), trước tiên là người
lính, sau đó là đan sĩ và giám mục: như một bức tranh thánh, ngài cho chúng ta
thấy giá trị không thể thay thế được của chứng tá cá nhân về đức ái. Ngay cổng
thành Amiens, Thánh Martinô đã chia áo choàng của mình cho một người
nghèo. Ngay trong đêm đó, Đức Giêsu hiện ra với ngài trong mộng, mình mặc chiếc
áo choàng đó, để xác nhận giá trị vĩnh cửu của lời Phúc Âm: “Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc... Mỗi
lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là
các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,36.40)[36].
Chúng ta còn có thể trích dẫn rất nhiều chứng tá khác về tình bác ái trong lịch
sử Hội Thánh; đặc biệt nhất là sự phục vụ bác ái đối với tha nhân trong
phong trào đan tu, khởi đầu với Thánh Antôn, đan viện phụ (356). Trong cuộc gặp
gỡ “mặt đối mặt” với Thiên Chúa, Đấng
là Tình yêu, vị đan sĩ này cảm thấy một sự thúc bách khẩn cấp, phải chuyển đổi
trọn cuộc đời mình để phục vụ - phục vụ Thiên Chúa và phục vụ tha nhân. Điều
này có thể giải thích tại sao lại có nhiều nhà đón khách lỡ đường, nhà dành cho
bệnh nhân và cho người nghèo được xây bên cạnh các đan viện. Điều này cũng giải
thích biết bao sáng kiến dành cho sự phát triển con người và giáo dục Kitô
giáo, là những việc chú tâm đến người nghèo. Những công tác này đầu tiên được
các đan tu và dòng hành khất đảm nhiệm và tiếp đón, xuyên suốt cả lịch sử Hội
Thánh là các tu hội nam cũng như nữ. Gương mặt của các vị Thánh như
Phanxicô Assisi, Inhaxiô Loyola, Gioan Thiên Chúa, Camillô Lellis, Vinh Sơn
Phaolô, Louise de Marillac, Giuseppe B. Cottolengo, Gioan Bosco, Luigi Orione
và Têrêsa Calcutta - đây chỉ nêu lên vài vị - là những mẫu gương danh tiếng về
bác ái xã hội cho mọi người thiện chí. Các vị thánh là những người đích thực
mang ánh sáng của lịch sử, chỉ vì họ là những con người của đức tin, của hy vọng
và của tình yêu.
41. Nổi bật nhất giữa chư thánh
là Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa, tấm gương của sự thánh thiện. Trong Phúc Âm Thánh
Luca, chúng ta nhìn thấy Mẹ dấn thân phục vụ bác ái cho người chị họ của mình là
bà Elisabeth; Mẹ đã ở lại nhà bà “độ ba
tháng” (Lc 1,56), để giúp đỡ bà trong giai đoạn cuối cùng của việc mang
thai. Trong dịp thăm viếng này, Mẹ đã cất
cao lời kinh “Magnificat anima mea Dominum” (Linh hồn tôi ngợi khen Đức
Chúa) (Lc 1,46). Qua lời kinh này, Mẹ đã nói lên tất cả chương trình của
cuộc sống mình: Mẹ không đặt mình vào trọng tâm, nhưng dành chỗ cho Thiên Chúa,
Đấng mà Mẹ gặp gỡ trong kinh nguyện cũng như trong phục vụ tha nhân – chỉ như
thế trần gian mới tốt đẹp. Đức Maria thật cao cả, không phải vì Mẹ muốn làm cho
mình cao cả nhưng là Thiên Chúa. Mẹ khiêm nhường: Mẹ không muốn điều gì khác
hơn là Nữ tỳ của Chúa (x. Lc 1,38.48). Mẹ biết, Mẹ chỉ đóng góp vào ơn cứu độ
thế giới, không phải qua việc hoàn tất công trình của mình, nhưng dâng hiến bản
thân mình, sẵn sàng phục vụ cho sáng kiến của Thiên Chúa. Mẹ là một người hy vọng:
vì Mẹ tin vào các lời hứa của Thiên Chúa và mong chờ ơn cứu độ của Israel,
nên thiên thần có thể đến với Mẹ và kêu gọi Mẹ đi vào công việc phục vụ mang
tính chất quyết định cho những lời hứa này. Mẹ là một người tin: Bà Elisabeth
nói với Mẹ: “Phúc cho em vì đã
tin” (Lc 145). Kinh Magnificat -
có thể xem đó là tấm ảnh linh hồn của Mẹ - được dệt bằng các sợi chỉ rút từ
Thánh Kinh, từ những sợi chỉ của Lời Chúa. Điều này cho thấy rõ, Mẹ
luôn ở trong Lời Chúa, ra vào thật tự nhiên. Mẹ nói và suy tư với Lời Chúa; Lời
Chúa trở thành lời của Mẹ và lời của Mẹ đến từ Lời Chúa. Điều này cho thấy, tư
tưởng của Mẹ là đồng suy nghĩ với tư tưởng của Thiên Chúa; ao ước của Mẹ cùng
khao khát với ý muốn của Thiên Chúa. Vì Mẹ đã thấm nhuần Lời Chúa, nên Mẹ có thể
trở thành Mẹ của Ngôi Lời Nhập thể. Cuối cùng, Đức Maria là một người đang yêu.
Làm thế nào có thể khác đi được? Như một người tin và suy nghĩ trong đức tin với
tư tưởng của Thiên Chúa, ao ước với ý muốn của Thiên Chúa, nên Mẹ chỉ có thể là
một người đang yêu mà thôi. Chúng ta nhận ra điều này qua những cử chỉ thầm lặng
mà lịch sử thời thơ ấu trong Phúc Âm tường thuật cho chúng ta. Chúng ta nhìn thấy
điều đó qua sự tế nhị, Mẹ nhận ra những nhu cầu của đôi tân hôn ở Cana và
đã nói lại với Đức Giêsu. Chúng ta nhìn thấy điều đó trong sự khiêm nhường, Mẹ
chấp nhận sống âm thầm trong suốt thời gian công khai của Đức Giêsu, biết rằng
Con mình sẽ thiết lập một gia đình mới và giờ của người mẹ chỉ đến vào lúc đứng
dưới chân thánh giá, cũng là giờ đích thực của Đức Giêsu (x. Ga 2,4; 13,1). Khi
các môn đệ trốn chui trốn nhủi, Mẹ vẫn đứng bên thánh giá (x. Ga 19,25-27); sau
đó, vào giờ Hiện Xuống, các môn đệ vây quanh Mẹ trong sự chờ đợi Chúa Thánh Thần
(x. Cv 1,14).
42. Cuộc đời các vị thánh không
chỉ bao gồm tiểu sử trần thế của họ, nhưng là cuộc sống và hoạt động của họ bên
Thiên Chúa sau khi họ chết. Một điều rõ ràng nơi các vị thánh: ai tiến đến
Thiên Chúa sẽ không tách biệt khỏi con người, nhưng ngược lại rất gần gũi. Điều
này chúng ta thấy rất rõ nơi Đức Maria. Lời của Đấng chịu đóng đinh nói với người
môn đệ, nói với Gioan và qua ngài với tất cả các môn đệ của Đức Giêsu: “Đây là Mẹ con!” (Ga 19,27) - qua
muôn thế hệ vẫn mang tính chất mới mẻ. Đức Maria thật sự trở thành Mẹ của mọi
tín hữu. Nhân loại ở mọi thời đại và từ khắp góc trời trên trái đất, với những
nhu cầu và hy vọng, với niềm vui và đau khổ, trong cô đơn hay với tập thể, đều
chạy đến lòng nhân hậu từ mẫu cũng như sự thanh khiết và vẻ đẹp trinh nguyên của
Mẹ. Và luôn luôn họ nhận được quà tặng của lòng từ mẫu, cảm nghiệm được tình
yêu vô tận, mà Mẹ chia sẻ từ con tim của mình. Những chứng cứ của sự biết ơn,
mà từ mọi lục địa và văn hoá đem đến cho Mẹ, là sự công nhận tình yêu thuần khiết
của Mẹ, tình yêu không tìm gì cho chính mình, nhưng chỉ muốn điều thiện hảo. Việc
tôn kính của các tín hữu biểu lộ trực giác không sai lầm về việc làm thế nào một
tình yêu như thế lại có thể hiện hữu được: qua việc kết hợp mật thiết với Thiên
Chúa, qua việc được Thiên Chúa thấm nhập, điều này giúp cho người uống lấy nguồn
suối từ tình yêu Thiên Chúa, cũng trở thành suối nguồn, “từ đó tuôn chảy những dòng nước hằng sống” (Ga 7,38). Đức
Maria, Trinh Nữ và là Mẹ, chỉ cho chúng ta thấy tình yêu là gì và nguồn gốc
tình yêu xuất phát từ đâu mà sức lực của nó luôn mới mẻ. Chúng ta tin tưởng
trao phó Hội Thánh cũng như sứ vụ của Hội Thánh trong việc phục vụ tình yêu cho
Mẹ.
Thánh Maria Mẹ Chúa Trời
Mẹ đã ban cho thế giới ánh sáng thật
Là Đức Giêsu, Con của Mẹ - cũng là Con Thiên
Chúa.
Mẹ đã phó thác bản thân mình cách trọn vẹn
Cho tiếng gọi của Thiên Chúa
và vì thế Mẹ trở thành nguồn suối của mọi điều thiện hảo
Tuôn chảy từ Người
Xin tỏ cho chúng con Đức Giêsu. Xin dẫn chúng con đến với Người
Xin dạy chúng con biết Người và yêu mến Người,
Để tất cả chúng con cũng có thể trở thành những
người yêu đích thực
Và thờ thành nguồn mạch của Nước hằng sống
Giữa một thế giới đang khát nước.
Ban hành tại Rôma, tại Đền Thánh Phêrô
Ngày 25.12.2005, vào Đại
lễ Sinh nhật của Chúa
năm đầu triều đại Giáo hoàng của tôi.
BÊNÊĐICTÔ XVI
Uỷ ban Giáo lý Đức tin
Văn phòng Thư ký HĐGMVN thực hiện
Bản dịch từ Đức ngữ của Lm.
Augustinô Nguyễn Văn Trinh
có tham chiếu bản dịch Anh, Ý,
Pháp và Việt ngữ,
với sự chuẩn nhận của Đức cha
Phaolô Bùi Văn Đọc,
Chủ tịch Uỷ Ban Giáo lý Đức tin.
WHĐ (06.01.2023)
[7] x. Ps.-Dionysius the Areopagite, trong tác phẩm The
Divine Names, IV, 12-14 : PG 3, 709-713, ông đã gọi Thiên Chúa vừa là eros vừa là agape.
[17] x. Thánh bộ các giám mục, Hướng dẫn thừa tác vụ mục vụ
của các giám mục Apostolorum
Successores (22.2.2004), 194, Vatican City 2004, tr. 213.
[20] x. Thánh bộ các Giám mục. Hướng dẫn thừa tác vụ mục vụ
của các Giám Mục Apostolorum
Successores (22.2.2004), 197, Vatican city 2004, tr. 217.
[21] ĐGH. Gioan Phaolô ll, Tông huấn hậu Thượng Hội đồng Christifideles Laici (30.12.1988),
42 : AAS 81 (1989), 472.
[22] x. Thánh bộ Giáo lý Đức tin, Doctrinal Note on Some questions Regarding
the participation of Catholics in Political Life (24.11.2002), 1: L’Osservatore Romano English
edition, 22.11.2003, tr. 5.
[26] x. Thánh bộ các Giám mục, Hướng dẫn thừa tác vụ mục vụ
của các giám mục Apostolorum
Successores (22.2.2004), 195, Vatican City 2004, tr. 214-216.
[27] x. ĐGH. Gioan Phaolô ll, Tông huấn hậu Thượng Hội đồng Christifideles Laici (30.12.1988),
41 : AAS 81 (1989) 470-472.
[30] x. Thánh bộ các Giám mục, Hướng dẫn thừa tác vụ mục vụ
của các giám mục Apostolorum
Successores (22.2.2004), 196, Vatican City 2004, tr. 216.
[36] x. Sulpicius Severus, Vita Sancti Martini, 3, 1-3 : SCh 133, 256-258.
- Diễn văn của Đức Thánh Cha Phanxicô tại Hội nghị “Sáng kiến Toàn cầu Clinton 2023”, 19. 09. 2023 ( 20/09/2023)
- Giải đáp thắc mắc cho người trẻ: Bài 99 - Nguồn sống đang bị đe dọa ( 11/09/2023)
- Diễn văn của Đức Thánh Cha trong buổi gặp gỡ các nhân viên của các tổ chức bác ái ( 04/09/2023)
- “Linh đạo đóng vai trò chất đốt trong Hoạt Động Sinh Thái” ( 02/09/2023)
- Toàn văn Sứ Điệp Đức Thánh Cha Phanxicô gửi các Doanh nhân Pháp ngày 28.08.2023 ( 31/08/2023)
- Nhân Quyền ( 30/08/2023)
- Từ sự phát triển Con Người Toàn Diện đến nền Sinh Thái Toàn Diện ( 26/08/2023)
- Diễn văn của Đức Thánh Cha tại buổi đọc Kinh Mân Côi tại Fatima với các bệnh nhân và tù nhân ( 05/08/2023)
- Diễn văn của Đức Thánh Cha trong buổi gặp gỡ đại diện của một số trung tâm trợ giúp và bác ái ( 05/08/2023)
- Nguyên tắc Tham Gia ( 22/07/2023)