TGP Hà Nội

03/12/2017

Nhà thờ Chánh tòa Hà Nội

GIỚI THIỆU SƠ LƯỢC TỔNG GIÁO PHẬN HÀ NỘI

Văn phòng Tòa Tổng Giám mục Hà Nội

I. LƯỢC SỬ HÌNH THÀNH

Lịch sử của Tổng giáo phận Hà Nội đã trải qua gần 400 năm hình thành và phát triển. Trong đó các thừa sai dòng Tên, Hội Thừa Sai Paris cùng với hàng giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân Việt Nam, nhờ ơn Chúa, đã đóng góp hết mình để làm nên trang sử của Tổng giáo phận và tô đậm dòng lịch sử Giáo hội Việt Nam. Quá trình lịch sử này được tóm lược theo ba thời kỳ: thời kỳ giáo sĩ dòng Tên truyền giáo, thời kỳ Hội Thừa Sai Paris (MEP) truyền giáo và thời kỳ Hàng giáo phẩm người Việt từ năm 1950.

1. Thời các giáo sĩ dòng Tên (1626-1663, vua Lê - chúa Trịnh)

Năm 1626, cha Giuliano Baldinotti, người Ý, và thầy Piani, người Nhật, là hai thừa sai đầu tiên được cử tới Kẻ Chợ (Thăng Long). Hai vị được chúa Trịnh Tráng đón tiếp cách đặc biệt và cho tự do truyền giáo vì lúc đó nhà chúa đang cần vũ khí của người nước ngoài để chống lại chúa Nguyễn ở Ðàng Trong. Hai vị không biết ngôn ngữ địa phương (phải nói qua thông dịch hay bút đàm), nên cha Baldinotti liều viết thư xin các cha dòng Tên ở Ðàng Trong ra trợ giúp. Sự việc này khiến chúa Trịnh nghi ngờ và tạo dịp cho một số quan lại chống đối.

Như được chuẩn bị từ trước, cha Giám tỉnh dòng Tên cử hai cha Marques (đến Ðàng Trong từ năm 1618) và cha Alexandre de Rhodes (Ðắc Lộ) (đến Ðàng Trong từ năm 1624), từ Ðàng Trong về Macao năm 1626, để chuẩn bị ra Ðàng Ngoài. Ngày 12.03.1627, từ Macao cha Marques và Ðắc Lộ lên đường và tới Cửa Bạng (Thanh Hóa) ngày 19.03.1627.

Tiếp nối công việc của cha Marques và Ðắc Lộ, ngày 15.03.1631, các thừa sai dòng Tên lần lượt có mặt tại Kẻ Chợ và được chúa Trịnh tiếp đón nồng hậu cùng cho phép tự do giảng đạo vì chúa cần sự có mặt của các thừa sai để buôn bán với người Bồ Ðào Nha về nhiều mặt hàng, nhất là vũ khí, đạn dược. Từ năm 1631-1663, giáo đoàn Ðàng Ngoài được nhiều giáo sĩ dòng Tên đến giúp, trong đó có các cha Gaspar d'Amaral (1631-1638), cha Felice Morelli (1636-1647), cha Filippo Giovani de Marini (1647-1658), cha Onofrio Borgès (1642-1663).

2. Thời kỳ Hội Thừa Sai Paris (MEP) (Nhà Trịnh, Nhà Nguyễn, và Pháp thuộc)

Ngày 09.09.1659, Tòa Thánh thành lập hai giáo phận tông tòa (Vicariates) ở Việt Nam: Ðàng Trong và Ðàng Ngoài, bổ nhiệm Ðức Cha Francois Pallu làm Đại diện Tông tòa Ðàng Ngoài (1659-1679). Suốt thời gian làm Đại diện Tông tòa, Ðức Cha Pallu nhiều lần muốn tới Ðàng Ngoài để nhận nhiệm sở nhưng đều bị cản trở, nên ngài nhờ Ðức Cha P. Lambert de la Motte giám quản giùm và đặt cha F. Deydier Phan làm cha chính (tổng đại diện) giáo phận. Ðến năm 1679, Tòa Thánh bổ nhiệm ngài làm giám mục giáo phận Phúc Kiến (Trung Quốc).

Ngày 18.08.1666, cha Deydier có mặt tại Thăng Long để thực thi sứ mệnh truyền giáo. Năm 1669, Ðức cha Lambert de la Motte tới Phố Hiến. Ðầu năm 1670 ngài truyền chức "nhỏ" cho 48 thầy, chủ trì Công đồng đầu tiên ở Phố Hiến, lập dòng Mến Thánh Giá tại Kiên Lao và Bái Vàng.

Năm 1679, giáo phận tông tòa Ðàng Ngoài được chia làm hai: Tây Đàng Ngoài và Đông Đàng Ngoài. Tây Ðàng Ngoài trao cho Hội Thừa Sai Paris, do Ðức cha Jacques de Bourges (1679-1714) coi sóc. Năm 1713, Ðức cha Bourges bị trục xuất. Ngài qua Thái Lan và mất ở đây năm 1714, thọ 83 tuổi.

Giáo phận Tông tòa Tây Ðàng Ngoài năm 1753 gồm: Bố Chính 10,000 giáo dân, Nghệ An 42,500, Thanh Hóa 24,039, Tây Nam (Trấn Sơn Nam) 45,188, Miền Tây (Trấn Sơn Tây) 7,000, Kẻ Chợ 3,000 gồm hai huyện Vĩnh Xương và Quảng Ðức, mỗi huyện 18 phường, làm thành "36 phố phường" tổng cộng 131.727 giáo dân.

a. Dưới triều Nguyễn (1789-1883)

Ðức cha J.B. Longer Gia (Giám mục hiệu tòa Gortyna) cai quản giáo phận Tây Ðàng Ngoài từ năm 1790-1831. Năm 1802, khi vua Gia Long ra Thăng Long, ngài đã tới yết kiến và nhắc tới mối liên hệ giữa Ðức cha Pigneau de Béhaine (Bá Ða Lộc) và nhà vua. Nhà vua hứa cho tự do tôn giáo, nhưng thật ra không được thi hành trong các địa phương. Tình hình giáo phận năm 1830 được biết như sau: 2 giám mục, 6 thừa sai, 87 linh mục bản xứ, 174,000 giáo dân, 50 giáo xứ, 1 đại chủng viện, 20 đại chủng sinh, 2 tiểu chủng viện, 60 tiểu chủng sinh, 595 người lớn được rửa tội, 1,886 trẻ em được rửa tội. Ðức cha Longer qua đời năm 1831.

Ðức cha J.M. Havard Giu (giám mục hiệu tòa Castorie 1790-1838), trong đời ngài có cha Cornay chết vì đạo năm 1837, qua đời năm 1838.

Ðức cha Pierre Borie Cao (giám mục hiệu tòa Acanthe) được bổ nhiệm giám mục năm 1838 và tử đạo ngay năm đó. Chiếu chỉ cấm đạo ngày 18.01.1839 của vua Minh Mạng đã khiến cho nhiều tín hữu ở Ðàng Ngoài bị bách hại và nhiều người chết vì đạo.

Ðức cha P.A. Retord Liêu (giám mục hiệu tòa Acanthe 1840-1858). Ðời ngài là một chuỗi những gian truân, đi ẩn trốn liên tục. Sau khi vua Minh Mạng ngã ngựa băng hà ngày 20.01.1841, Ðức cha đã có thể truyền giáo công khai vào những năm 1843-1847. Nhưng khi người Pháp bắn phá Cửa Hàn vào tháng 03.1847, vua Thiệu Trị nổi giận, đã ra sắc chỉ cấm đạo tháng 04.1847. Nhưng sau đó, nhà vua băng hà ngày 04.11.1847.

Ngày 27.03.1846, Ðức Gregorius XVI chia đôi giáo phận, một giữ tên giáo phận tông tòa Tây, một mang tên mới giáo phận tông tòa Nam Ðàng Ngoài (Vinh) gồm: Bố Chính và Nghệ An, Hà Tĩnh; giáo phận Tây vẫn rộng lớn.

Dưới thời Tự Ðức, Ðức Cha C.H. Jeantet Khiêm (1847-1866) cai quản giáo phận. Vua Tự Ðức cấm đạo gắt gao với 6 sắc chỉ từ 1848-1862 và chỉ cho phép giữ đạo sau hòa ước Nhâm Tuất (1862). Giáo phận đã trải qua cơn khủng bố khốc liệt của những người theo phong trào Văn Thân với khẩu hiệu "Bình Tây sát Tả" cho tới năm 1888.

Ðức cha J.S. Theurel Chiêu (giám mục hiệu tòa Acanthe 1858-1868). Theo bản tường trình, lúc này trong giáo phận có chừng 39 giáo xứ, 140.000 giáo dân.

b. Dưới thời thuộc địa Pháp (1883-1945)

Ðức cha P.F. Puginier Phước (giám mục hiệu tòa Mauricaastre 1868-1892) là người giao thời, ngài đã được mời làm trung gian hòa giải, nhưng sự việc không thành. Người Pháp đã đặt nền đô hộ trên đất nước ta.

Năm 1895, Tòa Thánh phân chia giáo phận tông tòa Tây Đàng Ngoài thành hai giáo phận, một giữ tên cũ giáo phận Tông tòa Tây, giáo phận mới lấy tên gọi là giáo phận Tông tòa Ðoài (Hưng Hóa).

Năm 1901, Ðức Lêô XIII lại chia giáo phận tông tòa Tây Ðàng Ngoài thành 2 giáo phận tông tòa. Giáo phận mới mang tên giáo phận tông tòa Thanh (sau là Phát Diệm). Ngày 03.12.1924, Tòa Thánh đổi tên các giáo phận tông tòa ở Việt Nam theo địa hạt hành chính, nơi đặt tòa giám mục, vì thế giáo phận Tây Ðàng Ngoài được đổi thành giáo phận tông tòa Hà Nội.

Ðức cha P.M. Gendreau Ðông (giám mục hiệu tòa Chrysopolis) cai quản giáo phận từ 1887-1934. Không kể việc điều tra và thiết lập các hồ sơ tử đạo, ngài đã làm nhiều việc xã hội và thiết lập các tổ chức giáo dục và đào tạo giáo dân cũng như giáo sĩ. Năm 1935, Giáo hội khai mạc Công đồng Ðông Dương.

Thời kỳ Ðức cha F. Chaize Thịnh (giám mục hiệu tòa Alabanda 1925-1949), Công đồng Ðông Dương 1935 đã mở đường cho việc mở mang dân trí, phát triển các tổ chức giáo dục và đào tạo cũng như việc xã hội từ thiện. Năm 1937, ngài mở câu lạc bộ nghiên cứu xã hội, cho phát triển ngành Công giáo Tiến hành. Theo bản phúc trình năm 1930, trong giáo phận có: 27 thừa sai, 143 linh mục Việt Nam phục vụ trong 88 giáo xứ, 400 thầy giảng, khoảng 400 nữ tu, trong đó có dòng Mến Thánh Giá, dòng Kín Carmel Hà Nội, dòng Sư Huynh La San với 700 học sinh, dòng Ða Minh Pháp, dòng Ðức Bà.

Năm 1948, giáo phận có khoảng 2.000.000 dân. Trong đó, giáo dân Công giáo có khoảng 195,000 người, 30 thừa sai, 135 linh mục, 95 tu sĩ, 491 nữ tu. Ðại Chủng Viện Xuân Bích đóng cửa sau biến cố ngày 19.12.1946, và được mở lại vào năm 1948.

3. Thời kỳ Hàng Giáo Phẩm Việt Nam

Tại Phát Diệm, Bùi Chu và Vĩnh Long đã có giám mục Việt Nam, nhưng giám mục tông tòa của Hà Nội vẫn thuộc Hội Thừa sai.

Năm 1950, Ðức cha Giuse Maria Trịnh Như Khuê được bổ nhiệm làm giám mục Hà Nội trong thời kỳ đất nước trải qua nhiều biến cố lớn: sự kiện tuyên ngôn độc lập ngày 02.09.1945, cuộc di cư vào Nam năm 1954. Ðức cha đã có Thư Chung nhắn nhủ giáo dân và rao giảng tình yêu thương đồng bào.

Ngày 24.11.1960, Tòa Thánh quyết định thành lập Hàng Giáo Phẩm Việt Nam, nâng giáo phận tông tòa lên hàng chính tòa, giáo phận Hà Nội được nâng lên hàng Tổng giáo phận và đặt Ðức cha Giuse Trịnh Như Khuê làm tổng giám mục. Ngày 24.05.1976, ngài được phong làm Hồng y tiên khởi của Việt Nam.

Ngày 02.06.1963, Tòa Thánh bổ nhiệm Ðức cha Giuse Maria Trịnh Văn Căn làm phó tổng giám mục Hà Nội. Sau khi Ðức Hồng y Khuê qua đời, ngài trở thành Tổng giám mục chính tòa. Ngày 30.06.1979, Ðức Gioan Phaolô II bổ nhiệm Đức Tổng giám mục Giuse Trịnh Văn Căn làm Hồng y và linh mục F.X. Nguyễn Văn Sang làm giám mục phụ tá. Ngài đã cùng với các giám mục Việt Nam thành lập Hội Đồng Giám Mục Việt Nam tại Hà Nội tháng 05.1980 và là chủ tịch đầu tiên. Ngày 16.11.1985, Ðức Hồng y ký thỉnh nguyện xin tuyên thánh cho 117 chân phước tử đạo Việt Nam và được Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II chấp thuận.

Ngày 18.05.1990, Ðức Hồng y Trịnh Văn Căn từ trần đột ngột. Ngày 23.04.1994, Ðức Gioan Phaolô II bổ nhiệm Ðức cha Phaolô Giuse Phạm Ðình Tụng, Giám mục Bắc Ninh, làm Tổng giám mục Hà Nội và linh mục tổng đại diện Phaolô Lê Ðắc Trọng làm giám mục phụ tá.

Ngày 26.11.1994, Tòa Thánh phong Hồng y cho Ðức Tổng giám mục Phaolô Giuse Phạm Ðình Tụng tại Rôma. Ngài được các giám mục bầu làm Chủ tịch Hội Ðồng Giám Mục Việt Nam trong đại hội lần VI ở Hà Nội, từ ngày 25.09 đến 01.10.1995. Ngài đã tích cực củng cố Ðại Chủng Viện Thánh Giuse Hà Nội, cổ võ những việc bác ái giúp người nghèo và củng cố đời sống đức tin của giáo dân.

Sau những cuộc thương thuyết không có kết quả của Tòa Thánh với nhà cầm quyền Hà Nội về một vị Tổng Giám mục mới, ngày 26 tháng 04 năm 2003, Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II bổ nhiệm Ðức Cha Giuse Ngô Quang Kiệt, làm Giám Quản Tông Tòa (Administrateur Apostolique Sede Plena) Tổng Giáo phận Hà Nội.

Ngày 19 tháng 2 năm 2005, Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã bổ nhiệm Ðức Cha Giuse Ngô Quang Kiệt làm Tổng Giám mục Chính tòa Tổng Giáo phận Hà Nội và chấp thuận đơn xin nghỉ hưu của Ðức Hồng y Phaolô Giuse Phạm Ðình Tụng.

Ngày 22 tháng 04 năm 2010, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI đã bổ nhiệm Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Nhơn làm Tổng Giám mục phó Tổng Giáo phận Hà Nội, và ngày 13 tháng 5 năm 2010, ngài trở thành Tổng Giám mục Hà Nội, khi Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI chấp nhận đơn xin từ chức của Đức Tổng Giám mục Giuse Ngô Quang Kiệt. Ngày 14 tháng 02 năm 2015, Đức Thánh Cha Phanxicô vinh thăng Đức Tổng Giám mục Phêrô Nguyễn Văn Nhơn làm Hồng y với tước hiệu nhà thờ Thánh Tôma.

Ngày 17 tháng 11 năm 2018, Tòa Thánh chấp thuận đơn xin từ nhiệm của Hồng y Phêrô Nguyễn Văn Nhơn vì lý do tuổi tác, đồng thời chọn Đức cha Giuse Vũ Văn Thiên, Giám mục Hải Phòng, làm Tổng giám mục Hà Nội.

II. ĐỊA LÝ VÀ DÂN SỐ

1. Ranh giới: Tổng Giáo phận Hà Nội phần lớn nằm trên địa bàn thành phố Hà Nội và 9 huyện ngoại thành thuộc Hà Tây cũ (trừ một số huyện thuộc giáo phận Bắc Ninh và một số huyện thuộc giáo phận Hưng Hóa) và một phần trên địa bàn 3 tỉnh: toàn bộ tỉnh Hà Nam; Nam Ðịnh (nửa thành phố Nam Ðịnh, huyện Mỹ Lộc, huyện Vụ Bản, huyện Ý Yên thuộc Tổng giáo Phận Hà Nội); Hòa Bình có 8 giáo xứ trong 4 huyện; Hải Hưng chỉ có một xứ thuộc huyện Kim Thi.

2. Diện tích: Tổng giáo phận Hà Nội có diện tích khoảng 4.953 km2.

3. Dân số: Đến ngày 31 tháng 12 năm 2021, Tổng giáo phận Hà Nội có dân số khoảng 10.500.000 người, phần lớn là người Kinh, ngoài ra còn có người Mường, Dao, Mán... Số giáo dân trong Tổng Giáo phận là 330.000 tín hữu, chiếm khoảng 3,14% dân số.

Năm

Dân số địa bàn

Dân số Công giáo

Tỷ lệ (%)

2021

10.500.000

330.000

3,14

 

4. Giáo xứ

Số giáo xứ của Tổng giáo phận Hà Nội tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2021 là 174 giáo xứ, trong đó có 169 giáo xứ có cha sở và 5 giáo xứ không có cha sở.

Năm

Giáo xứ có cha sở

Giáo xứ không có cha sở

Tổng cộng

2020

132

33

162

2021

169

5

174

 

II. NHÂN SỰ

1. Giám mục

a. Giám mục đương nhiệm

Đức Tổng Giám mục Giuse Vũ Văn Thiên, sinh năm 1960, thụ phong linh mục ngày 24 tháng 12 năm 1988, tấn phong giám mục ngày 2 tháng 1 năm 2003, được bổ nhiệm làm Tổng Giám mục Tổng Giáo phận Hà Nội ngày 17 tháng 11 năm 2018.

b. Các vị Giám mục tiền nhiệm

Hồng y Phêrô Nguyễn Văn Nhơn (13/05/2010 – 17/11/2018)

Tổng Giám mục Giuse Ngô Quang Kiệt (19/02/2005 – 13/05/2010)

Hồng y Phaolô Giuse Phạm Ðình Tụng † (23/03/1994 – 19/02/2005)

Hồng y Giuse Maria Trịnh Văn Căn † (27/11/1978 – 18/05/1990)

Hồng y Giuse Maria Trịnh Như Khuê † (24/11/1960 – 27/11/1978)

Giám mục François Chaize Thịnh, M.E.P †(07/02/1935 – 22/02/1949)

Giám mục Pierre-Jean-Marie Gendreau Đông, M.E.P † (03/12/1924 – 07/02/1935)

Giám mục Paul-François Puginier Phước, M.E.P † (03/11/1868 – 25/04/1892)

Giám mục Joseph-Simon Theurel Chiêu, M.E.P † (24/07/1866 – 03/11/1868)

Giám mục Charles-Hubert Jeantet Khiêm, M.E.P † (22/10/1858 – 24/07/1866)

Giám mục Pierre-André Retord Liêu, M.E.P † (24/11/1839 – 22/10/1858)

Saint Fr. Pierre Dumoulin-Borie Cao, M.E.P † (05/07/1838 – 24/11/1838)

Giám mục Joseph-Marie-Pélagie Havard Du, M.E.P † (08/02/1831 – 05/07/1838)

Giám mục Jacques-Benjamin Longer Gia, M.E.P † (17/08/1789 – 08/02/1831)

Giám mục Jean Davoust, M.E.P † (18/07/1780 – 17/08/1789)

Giám mục Bertrand Reydellet, M.E.P † (19/10/1764 – 27/07/1780)

Giám mục Louis Néez, M.E.P † (08/10/1738 – 19/10/1764)

Giám mục François-Gabriel Guisain, M.E.P † (03/10/1718 – 17/11/1723)

Giám mục Edme Bélot, M.E.P † (09/08/1714 – 02/01/1717)

Giám mục Jacques de Bourges, M.E.P † (25/11/1679 – 09/08/1714)

Giám mục François Pallu, M.E.P † (09/09/1659 – 1679)

2. Linh mục

Tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2021, Tổng giáo phận Hà Nội có 191 linh mục giáo phận và 33 linh mục dòng.

Năm

Linh mục giáo phận

Linh mục dòng

Tân linh mục

2020

184

32

9

2021

191

33

15

 

3. Chủng sinh

Tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2021, Tổng giáo phận Hà Nội có 11 chủng sinh học xong, 128 chủng sinh đang học và 98 dự bị chủng sinh.

Năm

Chủng sinh học xong

Chủng sinh đang học

Dự bị chủng sinh

2020

14

116

102

2021

11

128

98

 

4. Tu sĩ

Tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2021, Tổng giáo phận Hà Nội có 706 tu sĩ, trong đó có 106 tu sĩ thuộc dòng giáo hội và 600 tu sĩ thuộc dòng giáo phận.

Năm

Tu sĩ dòng giáo hội

Tu sĩ dòng giáo phận

Tổng cộng

2020

77

701

778

2021

106

600

706

 

5. Giáo lý viên

Giáo lý viên của Tổng Giáo phận Hà Nội tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2021 là 1430 giáo lý viên.

Năm

Giáo lý viên

2020

1430

2021

1430

 

IV. CƠ SỞ TỔNG GIÁO PHẬN

1. Nhà thờ chính tòa

Số 1 phố Nhà Thờ, Hàng Trống, Hoàn Kiếm, Hà Nội

2. Đại Chủng Viện Thánh Giuse Hà Nội

Khoa Triết Học: 125 Trung Văn, Phùng Khoang, Nam Từ Liêm, Hà Nội

Khoa Thần Học: 29 ngõ 220, Cổ Nhuế, Bắc Từ Liêm, Hà Nội

3. Trung tâm hành hương

- Vương Cung Thánh Đường Sở Kiện - Trung Tâm Hành hương Các Thánh Tử Đạo Sở Kiện
Địa chỉ: Thị trấn Kiện Khê - huyện Thanh Liêm - tỉnh Hà Nam

- Đền Thánh Phêrô Lê Tùy - Trung Tâm Hành Hương Bằng Sở
Địa chỉ: Thôn Bằng Sở, Xã Ninh Sở, huyện Thường Tín - Hà Nôi.

4. Các dòng tu tiêu biểu

- Dòng Mến Thánh Giá Hà Nội: 31 Nhà Chung, Hoàn Kiếm, Hà Nội

- Dòng thánh Phaolô: 37 Hai Bà Trưng, Hoàn Kiếm, Hà Nội

- Dòng Chúa Cứu Thế: 180/2 Nguyễn Lương Bằng, Đống Đa, Hà Nội

Ngoài các dòng có trụ sở chính, Tổng giáo phận còn có sự hiện diện của các tu sĩ dòng Don Bosco, Đaminh, Phanxicô, Tên, Thừa Sai Đức Tin, Nazaret, Vinh Sơn, Biển Đức, Con Đức Mẹ Vô Nhiễm, Tu đoàn Truyền Tin, Phaolô Thiện Bản, Nữ Vương Hòa Bình, Nữ Vương Truyền Giáo, Nữ Tử Bác Ái Vinh-sơn, Thừa Sai Bác Ái Khiết Tâm, Thừa Sai Bác Ái Vinh, Phanxicô nữ, Nữ Vương Truyền Giáo, Mân Côi Chí Hòa…

V. ĐỊA CHỈ LIÊN LẠC

Tòa Tổng Giám Mục Hà Nội

- Địa chỉ: 40 Nhà Chung, Hoàn Kiếm, Hà Nội, Việt Nam

- E-mail: ttgmhn@gmail.com

- Số điện thoại: 02439286350

- Website: tonggiaophanhanoi.org

(Cập nhật ngày 31/12/2021)

TIN LIÊN QUAN
LỊCH PHỤNG VỤ