TGP Hà Nội
Nhà thờ Chánh tòa Hà
Nội
GIỚI THIỆU SƠ LƯỢC TỔNG GIÁO PHẬN HÀ NỘI
Văn phòng Tòa Tổng Giám mục Hà Nội
I. LƯỢC SỬ HÌNH THÀNH
Lịch sử của Tổng giáo phận Hà Nội đã trải qua gần 400 năm
hình thành và phát triển. Trong đó các thừa sai dòng Tên, Hội Thừa Sai Paris
cùng với hàng giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân Việt Nam, nhờ ơn Chúa, đã đóng góp hết
mình để làm nên trang sử của Tổng giáo phận và tô đậm dòng lịch sử Giáo hội Việt
Nam. Quá trình lịch sử này được tóm lược theo ba thời kỳ: thời kỳ giáo sĩ dòng
Tên truyền giáo, thời kỳ Hội Thừa Sai Paris (MEP) truyền giáo và thời kỳ Hàng
giáo phẩm người Việt từ năm 1950.
1. Thời các giáo sĩ dòng Tên (1626-1663, vua Lê - chúa Trịnh)
Năm 1626, cha Giuliano Baldinotti, người Ý, và thầy Piani,
người Nhật, là hai thừa sai đầu tiên được cử tới Kẻ Chợ (Thăng Long). Hai vị được
chúa Trịnh Tráng đón tiếp cách đặc biệt và cho tự do truyền giáo vì lúc đó nhà
chúa đang cần vũ khí của người nước ngoài để chống lại chúa Nguyễn ở Ðàng
Trong. Hai vị không biết ngôn ngữ địa phương (phải nói qua thông dịch hay bút
đàm), nên cha Baldinotti liều viết thư xin các cha dòng Tên ở Ðàng Trong ra trợ
giúp. Sự việc này khiến chúa Trịnh nghi ngờ và tạo dịp cho một số quan lại chống
đối.
Như được chuẩn bị từ trước, cha Giám tỉnh dòng Tên cử hai
cha Marques (đến Ðàng Trong từ năm 1618) và cha Alexandre de Rhodes (Ðắc Lộ) (đến
Ðàng Trong từ năm 1624), từ Ðàng Trong về Macao năm 1626, để chuẩn bị ra Ðàng
Ngoài. Ngày 12.03.1627, từ Macao cha Marques và Ðắc Lộ lên đường và tới Cửa Bạng
(Thanh Hóa) ngày 19.03.1627.
Tiếp nối công việc của cha Marques và Ðắc Lộ, ngày
15.03.1631, các thừa sai dòng Tên lần lượt có mặt tại Kẻ Chợ và được chúa Trịnh
tiếp đón nồng hậu cùng cho phép tự do giảng đạo vì chúa cần sự có mặt của các
thừa sai để buôn bán với người Bồ Ðào Nha về nhiều mặt hàng, nhất là vũ khí, đạn
dược. Từ năm 1631-1663, giáo đoàn Ðàng Ngoài được nhiều giáo sĩ dòng Tên đến
giúp, trong đó có các cha Gaspar d'Amaral (1631-1638), cha Felice Morelli
(1636-1647), cha Filippo Giovani de Marini (1647-1658), cha Onofrio Borgès
(1642-1663).
2. Thời kỳ Hội Thừa Sai Paris (MEP) (Nhà Trịnh, Nhà Nguyễn,
và Pháp thuộc)
Ngày 09.09.1659, Tòa Thánh thành lập hai giáo phận tông tòa
(Vicariates) ở Việt Nam: Ðàng Trong và Ðàng Ngoài, bổ nhiệm Ðức Cha Francois
Pallu làm Đại diện Tông tòa Ðàng Ngoài (1659-1679). Suốt thời gian làm Đại diện
Tông tòa, Ðức Cha Pallu nhiều lần muốn tới Ðàng Ngoài để nhận nhiệm sở nhưng đều
bị cản trở, nên ngài nhờ Ðức Cha P. Lambert de la Motte giám quản giùm và đặt
cha F. Deydier Phan làm cha chính (tổng đại diện) giáo phận. Ðến năm 1679, Tòa
Thánh bổ nhiệm ngài làm giám mục giáo phận Phúc Kiến (Trung Quốc).
Ngày 18.08.1666, cha Deydier có mặt tại Thăng Long để thực
thi sứ mệnh truyền giáo. Năm 1669, Ðức cha Lambert de la Motte tới Phố Hiến. Ðầu
năm 1670 ngài truyền chức "nhỏ" cho 48 thầy, chủ trì Công đồng đầu
tiên ở Phố Hiến, lập dòng Mến Thánh Giá tại Kiên Lao và Bái Vàng.
Năm 1679, giáo phận tông tòa Ðàng Ngoài được chia làm hai:
Tây Đàng Ngoài và Đông Đàng Ngoài. Tây Ðàng Ngoài trao cho Hội Thừa Sai Paris,
do Ðức cha Jacques de Bourges (1679-1714) coi sóc. Năm 1713, Ðức cha Bourges bị
trục xuất. Ngài qua Thái Lan và mất ở đây năm 1714, thọ 83 tuổi.
Giáo phận Tông tòa Tây Ðàng Ngoài năm 1753 gồm: Bố Chính
10,000 giáo dân, Nghệ An 42,500, Thanh Hóa 24,039, Tây Nam (Trấn Sơn Nam)
45,188, Miền Tây (Trấn Sơn Tây) 7,000, Kẻ Chợ 3,000 gồm hai huyện Vĩnh Xương và
Quảng Ðức, mỗi huyện 18 phường, làm thành "36 phố phường" tổng cộng
131.727 giáo dân.
a. Dưới triều Nguyễn
(1789-1883)
Ðức cha J.B. Longer Gia (Giám mục hiệu tòa Gortyna) cai quản
giáo phận Tây Ðàng Ngoài từ năm 1790-1831. Năm 1802, khi vua Gia Long ra Thăng
Long, ngài đã tới yết kiến và nhắc tới mối liên hệ giữa Ðức cha Pigneau de
Béhaine (Bá Ða Lộc) và nhà vua. Nhà vua hứa cho tự do tôn giáo, nhưng thật ra
không được thi hành trong các địa phương. Tình hình giáo phận năm 1830 được biết
như sau: 2 giám mục, 6 thừa sai, 87 linh mục bản xứ, 174,000 giáo dân, 50 giáo
xứ, 1 đại chủng viện, 20 đại chủng sinh, 2 tiểu chủng viện, 60 tiểu chủng sinh,
595 người lớn được rửa tội, 1,886 trẻ em được rửa tội. Ðức cha Longer qua đời
năm 1831.
Ðức cha J.M. Havard Giu (giám mục hiệu tòa Castorie
1790-1838), trong đời ngài có cha Cornay chết vì đạo năm 1837, qua đời năm
1838.
Ðức cha Pierre Borie Cao (giám mục hiệu tòa Acanthe) được bổ
nhiệm giám mục năm 1838 và tử đạo ngay năm đó. Chiếu chỉ cấm đạo ngày
18.01.1839 của vua Minh Mạng đã khiến cho nhiều tín hữu ở Ðàng Ngoài bị bách hại
và nhiều người chết vì đạo.
Ðức cha P.A. Retord Liêu (giám mục hiệu tòa Acanthe 1840-1858).
Ðời ngài là một chuỗi những gian truân, đi ẩn trốn liên tục. Sau khi vua Minh Mạng
ngã ngựa băng hà ngày 20.01.1841, Ðức cha đã có thể truyền giáo công khai vào
những năm 1843-1847. Nhưng khi người Pháp bắn phá Cửa Hàn vào tháng 03.1847,
vua Thiệu Trị nổi giận, đã ra sắc chỉ cấm đạo tháng 04.1847. Nhưng sau đó, nhà
vua băng hà ngày 04.11.1847.
Ngày 27.03.1846, Ðức Gregorius XVI chia đôi giáo phận, một
giữ tên giáo phận tông tòa Tây, một mang tên mới giáo phận tông tòa Nam Ðàng
Ngoài (Vinh) gồm: Bố Chính và Nghệ An, Hà Tĩnh; giáo phận Tây vẫn rộng lớn.
Dưới thời Tự Ðức, Ðức Cha C.H. Jeantet Khiêm (1847-1866) cai
quản giáo phận. Vua Tự Ðức cấm đạo gắt gao với 6 sắc chỉ từ 1848-1862 và chỉ
cho phép giữ đạo sau hòa ước Nhâm Tuất (1862). Giáo phận đã trải qua cơn khủng
bố khốc liệt của những người theo phong trào Văn Thân với khẩu hiệu "Bình
Tây sát Tả" cho tới năm 1888.
Ðức cha J.S. Theurel Chiêu (giám mục hiệu tòa Acanthe
1858-1868). Theo bản tường trình, lúc này trong giáo phận có chừng 39 giáo xứ,
140.000 giáo dân.
b. Dưới thời thuộc địa
Pháp (1883-1945)
Ðức cha P.F. Puginier Phước (giám mục hiệu tòa Mauricaastre
1868-1892) là người giao thời, ngài đã được mời làm trung gian hòa giải, nhưng
sự việc không thành. Người Pháp đã đặt nền đô hộ trên đất nước ta.
Năm 1895, Tòa Thánh phân chia giáo phận tông tòa Tây Đàng
Ngoài thành hai giáo phận, một giữ tên cũ giáo phận Tông tòa Tây, giáo phận mới
lấy tên gọi là giáo phận Tông tòa Ðoài (Hưng Hóa).
Năm 1901, Ðức Lêô XIII lại chia giáo phận tông tòa Tây Ðàng
Ngoài thành 2 giáo phận tông tòa. Giáo phận mới mang tên giáo phận tông tòa
Thanh (sau là Phát Diệm). Ngày 03.12.1924, Tòa Thánh đổi tên các giáo phận tông
tòa ở Việt Nam theo địa hạt hành chính, nơi đặt tòa giám mục, vì thế giáo phận
Tây Ðàng Ngoài được đổi thành giáo phận tông tòa Hà Nội.
Ðức cha P.M. Gendreau Ðông (giám mục hiệu tòa Chrysopolis)
cai quản giáo phận từ 1887-1934. Không kể việc điều tra và thiết lập các hồ sơ
tử đạo, ngài đã làm nhiều việc xã hội và thiết lập các tổ chức giáo dục và đào
tạo giáo dân cũng như giáo sĩ. Năm 1935, Giáo hội khai mạc Công đồng Ðông
Dương.
Thời kỳ Ðức cha F. Chaize Thịnh (giám mục hiệu tòa Alabanda
1925-1949), Công đồng Ðông Dương 1935 đã mở đường cho việc mở mang dân trí,
phát triển các tổ chức giáo dục và đào tạo cũng như việc xã hội từ thiện. Năm
1937, ngài mở câu lạc bộ nghiên cứu xã hội, cho phát triển ngành Công giáo Tiến
hành. Theo bản phúc trình năm 1930, trong giáo phận có: 27 thừa sai, 143 linh mục
Việt Nam phục vụ trong 88 giáo xứ, 400 thầy giảng, khoảng 400 nữ tu, trong đó
có dòng Mến Thánh Giá, dòng Kín Carmel Hà Nội, dòng Sư Huynh La San với 700 học
sinh, dòng Ða Minh Pháp, dòng Ðức Bà.
Năm 1948, giáo phận có khoảng 2.000.000 dân. Trong đó, giáo
dân Công giáo có khoảng 195,000 người, 30 thừa sai, 135 linh mục, 95 tu sĩ, 491
nữ tu. Ðại Chủng Viện Xuân Bích đóng cửa sau biến cố ngày 19.12.1946, và được mở
lại vào năm 1948.
3. Thời kỳ Hàng Giáo Phẩm Việt Nam
Tại Phát Diệm, Bùi Chu và Vĩnh Long đã có giám mục Việt Nam,
nhưng giám mục tông tòa của Hà Nội vẫn thuộc Hội Thừa sai.
Năm 1950, Ðức cha Giuse Maria Trịnh Như Khuê được bổ nhiệm
làm giám mục Hà Nội trong thời kỳ đất nước trải qua nhiều biến cố lớn: sự kiện
tuyên ngôn độc lập ngày 02.09.1945, cuộc di cư vào Nam năm 1954. Ðức cha đã có
Thư Chung nhắn nhủ giáo dân và rao giảng tình yêu thương đồng bào.
Ngày 24.11.1960, Tòa Thánh quyết định thành lập Hàng Giáo Phẩm
Việt Nam, nâng giáo phận tông tòa lên hàng chính tòa, giáo phận Hà Nội được
nâng lên hàng Tổng giáo phận và đặt Ðức cha Giuse Trịnh Như Khuê làm tổng giám
mục. Ngày 24.05.1976, ngài được phong làm Hồng y tiên khởi của Việt Nam.
Ngày 02.06.1963, Tòa Thánh bổ nhiệm Ðức cha Giuse Maria Trịnh
Văn Căn làm phó tổng giám mục Hà Nội. Sau khi Ðức Hồng y Khuê qua đời, ngài trở
thành Tổng giám mục chính tòa. Ngày 30.06.1979, Ðức Gioan Phaolô II bổ nhiệm Đức
Tổng giám mục Giuse Trịnh Văn Căn làm Hồng y và linh mục F.X. Nguyễn Văn Sang
làm giám mục phụ tá. Ngài đã cùng với các giám mục Việt Nam thành lập Hội Đồng
Giám Mục Việt Nam tại Hà Nội tháng 05.1980 và là chủ tịch đầu tiên. Ngày
16.11.1985, Ðức Hồng y ký thỉnh nguyện xin tuyên thánh cho 117 chân phước tử đạo
Việt Nam và được Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II chấp thuận.
Ngày 18.05.1990, Ðức Hồng y Trịnh Văn Căn từ trần đột ngột.
Ngày 23.04.1994, Ðức Gioan Phaolô II bổ nhiệm Ðức cha Phaolô Giuse Phạm Ðình Tụng,
Giám mục Bắc Ninh, làm Tổng giám mục Hà Nội và linh mục tổng đại diện Phaolô Lê
Ðắc Trọng làm giám mục phụ tá.
Ngày 26.11.1994, Tòa Thánh phong Hồng y cho Ðức Tổng giám mục
Phaolô Giuse Phạm Ðình Tụng tại Rôma. Ngài được các giám mục bầu làm Chủ tịch Hội
Ðồng Giám Mục Việt Nam trong đại hội lần VI ở Hà Nội, từ ngày 25.09 đến
01.10.1995. Ngài đã tích cực củng cố Ðại Chủng Viện Thánh Giuse Hà Nội, cổ võ
những việc bác ái giúp người nghèo và củng cố đời sống đức tin của giáo dân.
Sau những cuộc thương thuyết không có kết quả của Tòa Thánh
với nhà cầm quyền Hà Nội về một vị Tổng Giám mục mới, ngày 26 tháng 04 năm
2003, Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II bổ nhiệm Ðức Cha Giuse Ngô Quang
Kiệt, làm Giám Quản Tông Tòa (Administrateur Apostolique Sede Plena) Tổng Giáo
phận Hà Nội.
Ngày 19 tháng 2 năm 2005, Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã bổ
nhiệm Ðức Cha Giuse Ngô Quang Kiệt làm Tổng Giám mục Chính tòa Tổng Giáo phận
Hà Nội và chấp thuận đơn xin nghỉ hưu của Ðức Hồng y Phaolô Giuse Phạm Ðình Tụng.
Ngày 22 tháng 04 năm 2010, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI đã bổ
nhiệm Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Nhơn làm Tổng Giám mục phó Tổng Giáo phận Hà Nội,
và ngày 13 tháng 5 năm 2010, ngài trở thành Tổng Giám mục Hà Nội, khi Đức Thánh
Cha Bênêđictô XVI chấp nhận đơn xin từ chức của Đức Tổng Giám mục Giuse Ngô
Quang Kiệt. Ngày 14 tháng 02 năm 2015, Đức Thánh Cha Phanxicô vinh thăng Đức Tổng
Giám mục Phêrô Nguyễn Văn Nhơn làm Hồng y với tước hiệu nhà thờ Thánh Tôma.
Ngày 17 tháng 11 năm 2018, Tòa Thánh chấp thuận đơn xin từ
nhiệm của Hồng y Phêrô Nguyễn Văn Nhơn vì lý do tuổi tác, đồng thời chọn Đức
cha Giuse Vũ Văn Thiên, Giám mục Hải Phòng, làm Tổng giám mục Hà Nội.
II. ĐỊA LÝ VÀ DÂN SỐ
1. Ranh giới: Tổng Giáo phận Hà Nội phần lớn nằm
trên địa bàn thành phố Hà Nội và 9 huyện ngoại thành thuộc Hà Tây cũ (trừ một số
huyện thuộc giáo phận Bắc Ninh và một số huyện thuộc giáo phận Hưng Hóa) và một
phần trên địa bàn 3 tỉnh: toàn bộ tỉnh Hà Nam; Nam Ðịnh (nửa thành phố Nam Ðịnh,
huyện Mỹ Lộc, huyện Vụ Bản, huyện Ý Yên thuộc Tổng giáo Phận Hà Nội); Hòa Bình
có 8 giáo xứ trong 4 huyện; Hải Hưng chỉ có một xứ thuộc huyện Kim Thi.
2. Diện tích: Tổng giáo phận Hà Nội có diện tích
khoảng 4.953 km2.
3. Dân số: Đến ngày 31 tháng 12 năm 2021, Tổng
giáo phận Hà Nội có dân số khoảng 10.500.000 người, phần lớn là người Kinh,
ngoài ra còn có người Mường, Dao, Mán... Số giáo dân trong Tổng Giáo phận là
330.000 tín hữu, chiếm khoảng 3,14% dân số.
Năm |
Dân số địa bàn |
Dân số Công giáo |
Tỷ lệ (%) |
2021 |
10.500.000 |
330.000 |
3,14 |
4. Giáo xứ
Số giáo xứ của Tổng giáo phận Hà Nội tính đến ngày 31 tháng
12 năm 2021 là 174 giáo xứ, trong đó có 169 giáo xứ có cha sở và 5 giáo xứ
không có cha sở.
Năm |
Giáo xứ có cha sở |
Giáo xứ không có
cha sở |
Tổng cộng |
2020 |
132 |
33 |
162 |
2021 |
169 |
5 |
174 |
II. NHÂN SỰ
1. Giám mục
a. Giám mục đương
nhiệm
Đức Tổng Giám mục Giuse Vũ Văn Thiên, sinh năm 1960, thụ
phong linh mục ngày 24 tháng 12 năm 1988, tấn phong giám mục ngày 2 tháng 1 năm
2003, được bổ nhiệm làm Tổng Giám mục Tổng Giáo phận Hà Nội ngày 17 tháng 11
năm 2018.
b. Các vị Giám mục
tiền nhiệm
Hồng y Phêrô Nguyễn Văn Nhơn (13/05/2010 – 17/11/2018)
Tổng Giám mục Giuse Ngô Quang Kiệt (19/02/2005 – 13/05/2010)
Hồng y Phaolô Giuse Phạm Ðình Tụng † (23/03/1994 –
19/02/2005)
Hồng y Giuse Maria Trịnh Văn Căn † (27/11/1978 – 18/05/1990)
Hồng y Giuse Maria Trịnh Như Khuê † (24/11/1960 –
27/11/1978)
Giám mục François Chaize Thịnh, M.E.P †(07/02/1935 –
22/02/1949)
Giám mục Pierre-Jean-Marie Gendreau Đông, M.E.P †
(03/12/1924 – 07/02/1935)
Giám mục Paul-François Puginier Phước, M.E.P † (03/11/1868 –
25/04/1892)
Giám mục Joseph-Simon Theurel Chiêu, M.E.P † (24/07/1866 –
03/11/1868)
Giám mục Charles-Hubert Jeantet Khiêm, M.E.P † (22/10/1858 –
24/07/1866)
Giám mục Pierre-André Retord Liêu, M.E.P † (24/11/1839 –
22/10/1858)
Saint Fr. Pierre Dumoulin-Borie Cao, M.E.P † (05/07/1838 –
24/11/1838)
Giám mục Joseph-Marie-Pélagie Havard Du, M.E.P † (08/02/1831
– 05/07/1838)
Giám mục Jacques-Benjamin Longer Gia, M.E.P † (17/08/1789 –
08/02/1831)
Giám mục Jean Davoust, M.E.P † (18/07/1780 – 17/08/1789)
Giám mục Bertrand Reydellet, M.E.P † (19/10/1764 – 27/07/1780)
Giám mục Louis Néez, M.E.P † (08/10/1738 – 19/10/1764)
Giám mục François-Gabriel Guisain, M.E.P † (03/10/1718 –
17/11/1723)
Giám mục Edme Bélot, M.E.P † (09/08/1714 – 02/01/1717)
Giám mục Jacques de Bourges, M.E.P † (25/11/1679 –
09/08/1714)
Giám mục François Pallu, M.E.P † (09/09/1659 – 1679)
2. Linh mục
Tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2021, Tổng giáo phận Hà Nội có
191 linh mục giáo phận và 33 linh mục dòng.
Năm |
Linh mục giáo phận |
Linh mục dòng |
Tân linh mục |
2020 |
184 |
32 |
9 |
2021 |
191 |
33 |
15 |
3. Chủng sinh
Tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2021, Tổng giáo phận Hà Nội có
11 chủng sinh học xong, 128 chủng sinh đang học và 98 dự bị chủng sinh.
Năm |
Chủng sinh học xong |
Chủng sinh đang học |
Dự bị chủng sinh |
2020 |
14 |
116 |
102 |
2021 |
11 |
128 |
98 |
4. Tu sĩ
Tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2021, Tổng giáo phận Hà Nội có
706 tu sĩ, trong đó có 106 tu sĩ thuộc dòng giáo hội và 600 tu sĩ thuộc dòng
giáo phận.
Năm |
Tu sĩ dòng giáo hội |
Tu sĩ dòng giáo phận |
Tổng cộng |
2020 |
77 |
701 |
778 |
2021 |
106 |
600 |
706 |
5. Giáo lý viên
Giáo lý viên của Tổng Giáo phận Hà Nội tính đến ngày 31
tháng 12 năm 2021 là 1430 giáo lý viên.
Năm |
Giáo lý viên |
2020 |
1430 |
2021 |
1430 |
IV. CƠ SỞ TỔNG GIÁO PHẬN
1. Nhà thờ chính tòa
Số 1 phố Nhà Thờ, Hàng Trống, Hoàn Kiếm, Hà Nội
2. Đại Chủng Viện Thánh Giuse Hà Nội
Khoa Triết Học: 125 Trung Văn, Phùng Khoang, Nam Từ Liêm, Hà
Nội
Khoa Thần Học: 29 ngõ 220, Cổ Nhuế, Bắc Từ Liêm, Hà Nội
3. Trung tâm hành hương
- Vương Cung Thánh Đường Sở Kiện - Trung Tâm Hành hương Các
Thánh Tử Đạo Sở Kiện
Địa chỉ: Thị trấn Kiện Khê - huyện Thanh Liêm - tỉnh Hà Nam
- Đền Thánh Phêrô Lê Tùy - Trung Tâm Hành Hương Bằng Sở
Địa chỉ: Thôn Bằng Sở, Xã Ninh Sở, huyện Thường Tín - Hà
Nôi.
4. Các dòng tu tiêu biểu
- Dòng Mến Thánh Giá Hà Nội: 31 Nhà Chung, Hoàn Kiếm, Hà Nội
- Dòng thánh Phaolô: 37 Hai Bà Trưng, Hoàn Kiếm, Hà Nội
- Dòng Chúa Cứu Thế: 180/2 Nguyễn Lương Bằng, Đống Đa, Hà Nội
Ngoài các dòng có trụ sở chính, Tổng giáo phận còn có sự hiện
diện của các tu sĩ dòng Don Bosco, Đaminh, Phanxicô, Tên, Thừa Sai Đức Tin,
Nazaret, Vinh Sơn, Biển Đức, Con Đức Mẹ Vô Nhiễm, Tu đoàn Truyền Tin, Phaolô
Thiện Bản, Nữ Vương Hòa Bình, Nữ Vương Truyền Giáo, Nữ Tử Bác Ái Vinh-sơn, Thừa
Sai Bác Ái Khiết Tâm, Thừa Sai Bác Ái Vinh, Phanxicô nữ, Nữ Vương Truyền Giáo,
Mân Côi Chí Hòa…
V. ĐỊA CHỈ LIÊN LẠC
Tòa Tổng Giám Mục Hà Nội
- Địa chỉ: 40 Nhà Chung, Hoàn Kiếm, Hà Nội, Việt Nam
- E-mail: ttgmhn@gmail.com
- Số điện thoại: 02439286350
- Website: tonggiaophanhanoi.org
(Cập nhật ngày 31/12/2021)
- GP Bắc Ninh ( 02/12/2017)
- GP Bùi Chu ( 01/12/2017)
- GP Hà Tĩnh ( 01/12/2017)
- GP Hải Phòng ( 01/12/2017)
- GP Hưng Hóa ( 01/12/2017)
- GP Lạng Sơn-Cao Bằng ( 01/12/2017)
- GP Phát Diệm ( 01/12/2017)
- GP Thái Bình ( 01/12/2017)
- GP Thanh Hóa ( 01/12/2017)
- GP Vinh ( 01/12/2017)