Suy niệm loan báo Tin
Mừng (18.10.2019 – Lễ
Kính thánh Luca, tác giả tin Mừng)
(Trích 31 bài giảng của
uỷ ban loan báo Tin Mừng trong tháng truyền giáo ngoại thường 10/2019)
Lời Chúa:
Thư 2 Tm 4, 9-17a
Con thân mến, Đêma đã lìa bỏ cha, bởi nó yêu chuộng
sự đời này, và đã trẩy sang Thêxalônica, còn Crescens thì đi Galata, Titô đi
Đalmatia. Chỉ còn một mình Luca ở với cha. Con hãy đem Marcô đi và dẫn tới đây
với con, vì anh ấy có thể giúp ích để cha chu toàn sứ vụ. Còn Tykicô, thì cha
đã sai đi Êphêxô rồi. Cái áo khoác cha để quên tại nhà ông Carpô ở Troa, khi
con tới, hãy mang đến cho cha, cả những cuốn sách và nhất là những mảnh da thuộc
để viết.
Anh thợ đồng Alexanđrô làm cho cha phải chịu nhiều
điều khốn khổ. Chúa sẽ trả báo cho nó tuỳ theo công việc nó đã làm. Cả con nữa,
con cũng phải xa lánh nó, vì nó kịch liệt phản đối lời giảng dạy của chúng ta.
Lần đầu tiên cha đứng ra biện hộ cho cha, thì chẳng
ai bênh đỡ cha, trái lại mọi người đều bỏ mặc cha: xin chớ chấp tội họ. Nhưng
Chúa đã phù hộ cha và ban sức mạnh cho cha, để nhờ cha mà lời rao giảng được
hoàn tất, và tất cả các Dân Ngoại được nghe.
Tin Mừng
Lc 10, 1-9
Khi ấy, Chúa chọn thêm bảy mươi hai người nữa
và sai các ông cứ từng hai người đi trước Người đến các thành và các nơi mà
chính Người sẽ tới. Người bảo các ông rằng: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì
ít; vậy các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đến gặt lúa của Người. Các con hãy
đi. Này Ta sai các con như con chiên ở giữa sói rừng. Các con đừng mang theo
túi tiền, bao bị, giày dép, và đừng chào hỏi ai dọc đường.
“Vào nhà nào, trước tiên các con hãy nói: ‘Bình
an cho nhà này’. Nếu ở đấy có con cái sự bình an, thì sự bình an của các con sẽ
đến trên người ấy. Bằng không, sự bình an lại trở về với các con. Các con ở lại
trong nhà đó, ăn uống những thứ họ có, vì thợ đáng được trả công. Các con đừng
đi nhà này sang nhà nọ. Khi vào thành nào mà người ta tiếp các con, các con hãy
ăn những thức người ta dọn cho. Hãy chữa các bệnh nhân trong thành và nói với họ
rằng: Nước Thiên Chúa đã đến gần các ngươi”.
Suy
niệm
Vào ngày lễ kính Thánh Luca hôm nay, chúng ta lắng nghe thư của Thánh
Phaolô gửi cho người môn đệ thân tín của ngài là Timôthê, trong thư ngài than
phiền rằng ngài chỉ còn một mình Luca đi cùng, ngoài ra chẳng còn ai. Trong bài
tường thuật của Luca về các cuộc hành trình của Phaolô trong sách Công Vụ Tông
Đồ, chúng ta thấy ở một vài chỗ có sự thay đổi đột ngột trong tường thuật: đó
là các chỗ gọi là “các đoạn chúng tôi” trong sách Công Vụ (x. Cv 16:10-17;
20:5-15; 21:1-18; 27:1-28).
Cho tới câu 10:16, viết ở ngôi thứ ba, tên của Luca vẫn chưa được nhắc đến.
Trong các câu 1 đến 9, người viết kể lại các chuyến hành trình của Phaolô đến
Phrygia, Galatia, Mysia, Bithynia và Troas. Nhưng bắt đầu từ câu 10, Luca viết ở
ngôi thứ nhất số nhiều: “Lập tức chúng tôi tìm cách đi Makêđônia, vì hiểu ra rằng
Thiên Chúa kêu gọi chúng tôi loan báo Tin Mừng cho họ.” Luca lên thuyền cùng với
Phaolô, và qua tài kể truyện của ông, ông mời gọi độc giả đi theo chuyến hành trình truyền giáo của các
ông.
Luca tiết lộ một chi tiết về bản thân ông ở đầu sách Tin Mừng. Ông viết
rằng ông đang trình bày những sự kiện “đã được thực hiện giữa chúng ta” như ông
đã lãnh nhận từ “những người đã chứng kiến tận mắt,” những người đã ở với Đức
Giêsu từ lúc khởi đầu sứ vụ công khai của Người (x. Lc 1:1-2). Trong đoạn mở đầu
này, Luca tiết lộ cho các độc giả rằng bản thân ông không phải là một nhân chứng
trực tiếp về những điều ông kể lại. Tác giả Tin Mừng này là một thành viên của
cộng đoàn Kitô hữu mới được khai sinh nhờ những chứng từ trực tiếp của những
người đã tai nghe mắt thấy Đức Giêsu rao giảng và đã chứng kiến việc Người chịu
đóng đinh và sống lại.
Mátthêu (10:1), Máccô (6:7), và Luca (9:1), mỗi người đều thuật lại sự
kiện Đức Giêsu gọi “Nhóm Mười Hai”, và sau một thời gian dạy dỗ họ, Người sai họ
đi loan báo Tin Mừng. Nhưng chỉ một mình Luca thuật lại rằng Đức Giêsu sau đó
sai một nhóm môn đệ đông hơn, bảy mươi hai người, mà chúng ta được nghe nói đến
trong bài đọc Tin Mừng hôm nay. Theo Luca, trong cuộc loan báo Tin Mừng đầu
tiên, không chỉ có Nhóm Mười Hai, mà còn có thêm nhiều người rao giảng Tin Mừng
khác nữa. Ngay trước khi chọn và sai họ đi rao giảng, Đức Giêsu đã bắt đầu cuộc hành
trình lên Giêrusalem rồi (x. Lc 9:51). Người sai bảy mươi hai môn đệ đi trước để
chuẩn bị cho Người đến các thành phố khác nhau. Sự kiện này là hình ảnh dự báo
trước trải nghiệm cá nhân của Luca khi ông đồng hành với Phaolô trong hành
trình truyền giáo.
Việc Đức Giêsu sai bảy mươi hai môn đệ (hay bảy mươi, theo một số thủ bản
khác) vừa báo trước vừa cung cấp một mô hình cho hoạt động truyền giáo của Hội
Thánh cho mọi dân tộc. Trong truyền thống Do Thái, các dân tộc trên trái đất được
nghe công bố Lề Luật trên núi Sinai gồm bảy mươi dân tộc (x. St 10; Đnl 32:8);
vì vậy, các môn đệ của Đức Giêsu được sai đến với mọi dân tộc.
Đoạn Tin Mừng của phụng vụ hôm nay trình bày việc tông đồ như là sự mặc
khải về Nước Thiên Chúa và cuộc phán xét đã bắt đầu trên thế giới này. Theo
Luca, đó không phải là việc loan báo cho Ítraen sự vĩ đại của Nước Thiên Chúa,
nhưng là công bố cho mọi dân tộc rằng Nước Thiên Chúa đã đến gần. Tác giả Tin Mừng
viết ra vào thời điểm mà “trong mọi dân tộc” đã có những chứng nhân về Chúa Phục
Sinh. Đây là thời khắc quyết định trong lịch sử, ở đó mọi người được cống hiến
cơ hội trở nên thành phần của Nước Thiên Chúa.
Phương pháp, tính chất và các viễn cảnh của hoạt động truyền giáo được
thực hiện bởi bảy mươi hai
môn đệ thì tương tự với những gì được thực hiện bởi Nhóm Mười Hai. Các chỉ dẫn
của Đức Giêsu mở ra với một sự mô tả về tình hình; tình hình lúa chín đầy đồng
được nhắc đến tương phản rõ rệt về tình trạng thợ gặt thì ít. Vì thế Đức Giêsu
dạy các môn đệ: “Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về.” “Cầu
nguyện là linh hồn của việc truyền giáo,” Đức Giáo Hoàng Phanxicô viết cho Hồng
Y Filoni ngày 22 tháng 10, 2017. Sáng kiến bắt nguồn từ Thiên Chúa, Đấng là chủ
mùa gặt; Người kêu gọi và sai đi. Đó là một lời mời gọi tham gia vào lời cầu
nguyện và cuộc ra đi của Đức Giêsu về với Cha, được diễn tả trong việc Người nộp
mình vào tay người ta: “Này Thầy sai anh em đi như chiên giữa bầy sói.” Các người
thừa sai không bao giờ được ỷ vào sức riêng, quyền lực hay bạo lực. Họ chỉ được
phong phú trong đức tin và lời cầu nguyện để giữ họ trong mối quan hệ tình yêu
với Đức Giêsu, Người Thầy sai họ đi.
Sự nghèo khó lúc ban đầu trở thành nền tảng và dấu chỉ sự tự do và tự
hiến hoàn toàn của họ cho nhiệm vụ duy nhất giải phóng họ khỏi mọi sự cản trở hay
trì hoãn. Tất cả điều này được xác định rõ trong một loạt nguyên tắc: không vướng
mắc cản trở gì, những người được sai đi đều nhắm thẳng mục tiêu, không dừng lại,
ngay cả để chào hỏi, là điều mà theo tập tục của Phương Đông, đòi hỏi khá nhiều thời gian (x. 2 V 4:29). Trái lại,
việc chào hỏi được dành cho những người mà sứ mạng được nhắm tới. Việc chào hỏi
này không chỉ là một lời tiên tri hay công bố, nhưng là một lời nói hiệu quả
đem lại niềm vui và hạnh phúc. Tóm lại, đó là sự “bình an” của thời đại Mêsia,
kèm theo ơn cứu rỗi (x. Lc 10:5-6). Những người được sai đi, giống như Chúa
Giêsu, thiết lập với những người tiếp nhận họ các mối quan hệ mà trong đó cuộc
sống bình an trong Nước Trời đã bắt đầu. Hành vi ứng xử của họ dẫn họ tới chỗ lệ
thuộc vào những người tiếp nhận họ, họ giao phó bản thân mình và chính cuộc đời
mình cho những người này. Vì thế các người thừa sai hoàn toàn dấn mình, thậm
chí cả sự mưu sinh của mình, vào những nguy cơ của sứ mạng: được tiếp nhận hay
bị từ chối, thành công hay thất bại. “Nhà” và “thành” biểu trưng cho đời sống
riêng tư và đời sống công cộng. Những người được sai đi lệ thuộc vào sự hiếu
khách của những người đón nhận sứ điệp, nhưng không gì có thể làm họ dừng lại
hay cản trở họ thi hành sứ mạng; họ là những người truyền giáo mang đến lời kêu
gọi khẩn cấp cuối cùng về khả năng cứu rỗi, lời kêu gọi ấy phải đến được tai của
mọi người, đến được trái tim của mọi người, bằng bất cứ giá nào.
Nguồn: Uỷ ban loan báo Tin Mừng