Lời kinh cầu hồn trong văn hóa Việt Nam
Lời kinh cầu hồn trong
văn hóa Việt Nam
(Suy
tư nhân tháng cầu hồn 2009)
Tại một số giáo phận miền Bắc, nhất là các Giáo phận do các Thừa sai
dòng Đa-minh truyền giáo trước đây, nhiều tín hữu rất quen thuộc với kinh “
Một bài văn tế
thường gồm bốn phần :
Lung khởi: mở đầu, thường bắt đầu bằng chữ Hỡi ôi, sau đó là lời than vãn
Thích thực: mở đầu bằng chữ “Nhớ linh xưa” sau đó là phần tuyên xưng công trạng của người đã quá vãng
Ai vãn: mở đầu bằng “khá thương thay” sau đó là niềm thương tiếc và cảm phục.
Kết: nói lên tâm tình thương tiếc và rút bài học cho người còn sống.
Kinh Phục Rĩ
cũng được soạn thảo theo đúng dàn bài trên, nhưng điều tuyệt tác của cha ông
chúng ta là làm cho lời kinh trở thành một lời tuyên xưng đức tin, tạo cho “bài
tế” mang một nét rất mới mẻ. Người viết không dám đi sâu hơn vào lãnh vực văn
chương mà chỉ mạo muội so sánh sự khác biệt giữa nội dung một bài tế và kinh
Phục Rĩ trong hai phần mở đầu (Lung khởi) và nội dung chính (Thích thực).
Trong phần mở
đầu, nếu bài tế người qua đời mở đầu bằng lời than vãn trước sự ra đi của một
người thân hoặc một nhân vật anh hùng, thì kinh Phục Rĩ lại mở đầu bằng lời
tuyên xưng đức tin, tôn vinh Thiên Chúa là Đấng Tối Cao, Đấng ngự trên chín
tầng trời. Ngài là chủ của sự sống, là Chúa của muôn loài muôn vật. Chúng ta
cùng so sánh lời mở đầu giữa hai bài tế của Cụ đồ Chiểu với kinh
Hỡi ôi !
súng giặc đất rền, lòng dân trời tỏ
Mười năm công vỡ ruộng, chưa chắc còn danh nổi tơ phao: một trận nghĩa đánh Tây, tuy là mất tiếng vang như mõ. (Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, năm 1861)
Hoặc:
Hỡi ôi !
Tủi phận
biên manh
Căm loài
gian tặc
Ngoài sáu
tỉnh hãy gợi câu án đổ, dân nhờ vua đặng lẽ sống vui
Trong một phen sao mắc chữ lục trầm, người vì nước rủ nhau chết ngặt (Điếu lục tỉnh Nam Kỳ sĩ dân văn).
Trước vong
linh người đã chết, người tín hữu Công giáo lại mở đầu bằng lời kinh ca tụng và
tôn thờ:
“Phục rĩ:
Chí tôn chân Chúa cửu trùng cao ngự chi thiên,
Khả tiểu
phàm phu, vạn vật hữu sinh chi địa”.
Chiếu lâm
bất sảng, phú tại vô tư
Dịch: Lạy Chúa
chí tôn
Thiên Chúa
cửu trùng cao ngự thiên cung
Thẩm nhận
đoàn con – phàm hèn giữa muôn tạo vật
Chúa soi
thấu cả, chẳng có đơn sai.[2]
Phần “Lung
khởi” của Kinh Phục Rĩ khá dài vì tiếp theo đó là lời tuyên xưng đức tin
vào Chúa Ba Ngôi: Chúa Cha sáng tạo muôn loài, Chúa Con chịu khổ chịu nạn để
cứu chuộc trần gian, Chúa Thánh Thần hiện xuống và ở cùng Giáo Hội...
Như thế, nếu
bài văn tế nhằm than vãn trước sự ra đi của người thân, thì kinh
Cũng trong
chiều hướng đó, cách nói về một người đã nằm xuống cũng rất khác biệt. Trong
Phần “Thích thực” là nội dung chính của bài tế, người ta kể lể công trạng của
người đã chết, để tuyên dương ca ngợi những việc họ đã làm. Cụ Đồ Chiểu trong
bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” đã ca ngợi những người nông dân suốt đời chân
lấm tay bùn, hiền lành là vậy, mà khi có giặc ngoại xâm đã bỗng chốc trở nên
anh hùng. Chúng ta cùng so sánh:
Nhớ linh
xưa
Côi cút làm
ăn; toan lo nghèo khó
Chưa quen
cung ngựa đâu tới trường nhung; chỉ biết ruộng trâu ở trong làng bộ...
Ấy vậy mà khi quân xâm lăng đến, họ bỗng trở nên mạnh mẽ:
Bữa thấy
bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan
Ngày xem
ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ.
Khi tưởng niệm
một người qua đời, kinh
Thiết niệm
linh hồn (mỗ)
Tự tòng
sinh tiền, chí kim tự hậu
Thụ Thiên
Chúa cực đại chi ân. Lự thử hồn vô tình chi vật.
Dịch: Nhớ
lại linh hồn...
Khi còn
sinh thời đến khi lâm mệnh
Chịu ơn
Chúa thực đã bao nhiêu – thật quả hồn vô tình chi vậy.
Hơn thế nữa,
vào lúc một người đã chết, nhìn lại chặng đường đã qua, xem ra họ chẳng làm
được gì đáng kể. Thời giờ Chúa ban hầu như đã trở nên vô dụng, như dòng nước
trôi đi không trở lại. Kinh Phục Rĩ là lời cầu nguyện sám hối chân thành thống
thiết:
Bình sinh
cư thế, bất thức bất vụ bất sự lực khuy
Vãng nhật
đa khiên, hoặc tư hoặc ngôn hoặc hành hữu mậu
Hoặc bị
linh hồn ký hãm minh ngộ, ái dục tam năng
Đa vị biệt
dung bất chuyên ức chuyên mộ chuyên tư; hoặc bị phục thân nhĩ mục khẩu tuỵ thủ
túc tứ thể, vọng các tha kỳ, mãn tuyến kính tuyền tuân tuyền phụng”
Dịch: bình
sinh trên thế, chẳng biết, chẳng giữ, chẳng cứ việc ngay
Lỗi phạm
bao nhiêu, hoặc suy hoặc nghe hoặc làm sự tội
Hoặc tại
linh hồn mắc điều gian nịnh thiếu sự khôn ngoan, bao nhiêu trọng tội
Chính không
nhớ không mộ không suy; hoặc tại phần thân xác nặng chẳng tìm nẻo chính lối
phải.
Chẳng cứ
tâm thành, chẳng vì kính vì vâng vì trọng.
Cũng chính vì
ý thức sự yếu hèn của mình mà lời kinh kêu nài ơn tha thứ nhờ công nghiệp của
Đức Giêsu Kitô, đồng thời nhờ lời cầu bầu của Đức Maria, các thiên thần, thánh
Bổn mạng, thiên thần hộ thủ và toàn thể chư thánh cùng bầu cử trước tòa Chúa
cho người đã qua đời được siêu thoát:
Á thân Chúa
Da-tô, thục tội thi ân chi đại nhân từ Thánh Mẫu vị kỳ xá quá cho đa.
Dịch: Ôi lạy Chúa Giê-su, chuộc tội ban ơn khôn lượng, cậy nhờ Thánh mẫu, nguyện cầu khẩn Chúa thương tha.
Trung thành
với luật hành văn của một bài tế, kinh Phục Rĩ cũng có một lối kết mang tính
“cẩn cáo”, nhưng nội dung lại là một lời cầu xin và mở ra niềm hy vọng. Ta hãy
so sánh:
Nước mắt
anh hùng lau chẳng ráo, thương vì hai chữ thiên dân; cây hương nghĩa sữi thắp
thêm thơm, cám bởi một câu vương thổ.
Hỡi ôi
thương thay
Có linh xin hưởng” (Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc)
Kinh Phục Rĩ
lại kết thúc như sau:
Nguyện thử
linh hồn, khiết thăng thiên quốc,
Xuân đài tự
tại, chân hưởng phúc chi vô cùng
Thọ vực
tiêu rao tín thường sinh chi hữu vinh
Kinh văn sở
đảo thỉnh chúng đồng âm. Amen
Dịch:
Nguyện cầu thanh tẩy linh hồn chóng lên thiên quốc
Muôn đời
cực lạc, an hưởng phúc vui vô cùng
Nguyện được
Cha ban phúc trường sinh nơi vĩnh viễn
Trông mong
khẩn khoản, hết thày đồng tâm. Amen.
Như đã nói
trên, nội dung của lời cầu nguyện đã được thay đổi. Tác giả đã khéo léo lồng
vào một bài văn tế quan niệm nhân sinh của Tin Mừng. Tâm tình cậy trông, sám
hối và hy vọng được nêu rõ trong lời kinh. Chính nhờ đó mà kinh Phục Rĩ vừa gần
gũi với tầng lớp bình dân, vừa dễ đi vào lòng người vì nó mang theo cái hồn của
văn chương Việt Nam, dễ hướng những người tham dự hướng về tiên tổ, với tâm
tình cầu nguyện hoàn toàn mới mẻ.
––––––––––––––––––––––––––––––––––
[1] Theo nhà thơ Lê Đình Bảng, tác giả của kinh Phục Rĩ có thể là một thày giảng có tên là Phan-xi-cô, xuất thân là một vị Hòa Thượng tiến sĩ, làm quan lớn trong phủ Chúa Trịnh, khoảng năm 1632. Có tài liệu cho rằng sau này Thày Phan-xi-cô đã chịu tử đạo năm 1640 (Xem Lê Đình Bảng trong http://dunglac.org/)
[2] Phần dịch nghĩa Kinh Phục Rĩ trích từ bản dịch của Đức Ông Phạm Hân Quynh, Gp Hải Phòng. Vì chú trọng đến âm vận để đọc chung trong cộng đoàn, nên có nhiều chỗ dịch không hoàn toàn sát nghĩa bản chữ Hán.
- Bảy lời trên thập giá hay là nguồn cảm hứng sáng tác vô tận về nhân sinh ( 23/03/2024)
- Hãy đến cùng Giuse - Giới thiệu Nhà nguyện kính thánh Giuse - Phát Diệm. ( 18/03/2024)
- Chúa hiển dung dưới mắt của danh họa Raphael ( 26/02/2024)
- Văn hóa tín ngưỡng Việt Nam: Cộng đoàn Công Giáo có nên diễn kịch Táo quân hay không? ( 26/01/2024)
- Giới thiệu Ban từ vựng Hán Nôm Công giáo ( 11/01/2024)
- Đi tìm ngày sinh của Đức cha Pierre Lambert de la Motte ( 10/01/2024)
- Thi Ca Trong Trải Nghiệm và Biểu Đạt Đời Sống Tâm Linh ( 24/11/2023)
- Cánh cửa tinh thần và hơi thở Thánh Linh: Giáo huấn của Hội Thánh trong mục vụ văn hóa, văn học nghệ thuật ( 14/11/2023)
- Sự chuyển hóa của lớp từ ngữ Công giáo vào tiếng Việt toàn dân ( 01/11/2023)
- Tấn phong Giám mục tiên khởi người Việt Nam (1933) theo tài liệu lưu trữ của Thánh bộ Truyền bá Đức tin ( 24/09/2023)