Ký ức về lỗi lầm và công bằng xã hội, hai khía cạnh của sự cứu chuộc
KÝ ỨC VỀ LỖI LẦM VÀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI, HAI KHÍA CẠNH CỦA SỰ CỨU CHUỘC
Ngọc Yến - Vatican News
Vatican News (17.08.2023) – Trong
cuộc phỏng vấn của Báo Quan sát viên Roma của Tòa Thánh, giáo sư Giacomo
Canobbio của Phân khoa Thần học Bắc Ý ở Milano, và giám đốc khoa học của Hàn
lâm viện Công giáo Brescia, nói về giáo huấn của Đức Thánh Cha Phanxicô về lòng
thương xót. Theo đó, lòng thương xót và công bằng xã hội như là “hai chiều kích
của một thực tại duy nhất”.
“Trong cuộc sống, tất cả chúng ta đều thiếu thốn
và chúng ta cần lòng thương xót. [...] Tất cả chúng ta đang mắc nợ Thiên Chúa,
Đấng rất quảng đại, và mắc nợ anh chị em. Mọi người đều biết rằng chúng ta chưa
thực sự là cha mẹ, chồng hay vợ, anh chị em như chúng ta phải là”. Những lời
này của Đức Thánh Cha Phanxicô, được nói vào tháng 4/2021, giúp hiểu không chỉ
về trọng tâm của khái niệm lòng thương xót trong thông điệp thần học của ngài,
nhưng còn là bản chất của lòng thương xót trong đời sống Giáo hội và của mỗi
Kitô hữu. Do tầm quan trọng của cả hai khía cạnh này, Báo Quan sát viên Roma của
Toà Thánh có cuộc phỏng vấn với giáo sư Giacomo Canobbio của Phân khoa Thần học
Bắc Ý ở Milano, và giám đốc khoa học của Hàn lâm viện Công giáo Brescia, nhằm
giúp khám phá mối liên hệ của chúng với những “hạt giống” thần học khác của Đức
Thánh Cha.
Đức Thánh Cha nói về lòng thương xót và công bằng
xã hội như là “hai chiều kích của một thực tại duy nhất”, vậy đâu là nguồn gốc
thần học và triết học của lời khẳng định này?
Để hiểu mối quan hệ giữa lòng thương xót và công
bằng xã hội, chúng ta phải trở lại với việc sử dụng các thuật ngữ “lòng thương
xót” và “công bằng” trong ngôn ngữ Kinh Thánh, để biết nguồn gốc xã hội của
chúng. Thực tế, trong lịch sử nhân loại có những bất bình đẳng gây ra bởi cả yếu
tố môi trường và hành vi con người. Theo quan điểm Kinh Thánh, tất cả mọi người
đều là hình ảnh và giống Thiên Chúa và do đó có cùng phẩm giá và có quyền hưởng
những lợi ích như nhau. Do đó, hành động của Thiên Chúa là nhằm mục đích phục hồi
phẩm giá này cho tất cả mọi người: đây là ý nghĩa của công bằng, mà trước khi
nó trở thành một hành động pháp lý thì nó là một hành động nhằm khôi phục trật
tự trong con người và trong xã hội, theo cách sao cho mỗi người tương hợp với
những gì họ phải là và xã hội bảo đảm điều này xảy ra. Tuy nhiên, vấn đề là xác
định con đường để công bằng được thực thi.
Trong ngôn ngữ hàng ngày, “thực thi công bằng”
đôi khi đồng nghĩa với việc trả thù: bắt một người phải chịu một hình phạt
tương ứng với điều xấu họ đã làm, đến mức loại bỏ họ nếu điều ác được thực hiện
là nghiêm trọng và là mối đe dọa cho xã hội. Theo quan điểm này, tiêu chí mà
người ta tiến hành là hình phạt phải tương xứng với tội đã gây ra. Tuy nhiên, bằng
cách này, người ta đặt quá nhiều niềm tin vào hình phạt, cho rằng nó có thể phục
hồi con người và chữa lành điều ác gây ra cho xã hội. Để sửa chữa giới hạn của
quan điểm này, trong vài thập kỷ qua trong lĩnh vực luật hình sự, một con đường
gọi là công lý phục hồi đã được đưa ra. Mục tiêu của công lý là phục hồi phẩm
giá của người phạm tội, tái hòa nhập người này vào xã hội với một khuôn mặt mới,
tương ứng với những gì người này phải là.
Trong bối cảnh này nảy sinh ý tưởng về lòng
thương xót, đặc trưng cho hành động của Thiên Chúa đối với những người có tội
và nhân loại nói chung. Tuy nhiên, lòng thương xót không có nghĩa là giả vờ rằng
điều ác chưa thực hiện; đúng hơn, đó là một hành động nhằm đổi mới con người và
xã hội, làm cho họ tương ứng với bản tính do chính Thiên Chúa thiết lập. Đó là
một hành động cứu độ. Về điều này tất cả các môn đệ Chúa Giêsu đều được mời gọi,
những người, theo quan điểm Tin Mừng, đã trải nghiệm lòng thương xót, được mời
gọi sử dụng lòng thương xót theo mẫu gương của Đấng đã phục hồi chúng ta. Nếu
nhân loại bị đánh dấu bởi sự bất bình đẳng và đây là hậu quả của bất công, thì
thực hiện công bằng sẽ có nghĩa là thực thi lòng thương xót, nghĩa là thái độ
chữa lành. Do đó, lòng thương xót và công bằng xã hội không đối nghịch nhau:
đúng hơn, chúng là hai khía cạnh của cùng một hành động nhằm làm cho con người
và xã hội tương ứng với những gì họ phải là, nghĩa là theo hình ảnh và giống
Thiên Chúa và một nơi trong đó phẩm giá của tất cả mọi người đều được nhìn nhận.
Thông thường công bằng xã hội, theo nghĩa công bằng
phân phối và tái phân phối, đòi hỏi không có lòng thương xót. Làm thế nào lòng
thương xót có thể củng cố công bằng xã hội trên bình diện đạo đức và chính trị?
Không có lòng thương xót, công bằng không thể đạt
được. Vấn đề là làm thế nào mối liên hệ giữa hai “đức tính” có thể được duy trì
về mặt chính trị. Nếu nhiệm vụ của chính trị là quản lý xã hội, thì vấn đề đặt
ra liên quan đến mô hình xã hội mà người ta muốn thực hiện. Và đây là vấn đề đạo
đức. Không có xã hội “công bằng” theo nghĩa được đề cập ở trên, bởi vì nếu nó tồn
tại thì sẽ không cần luật pháp và thể chế điều chỉnh trật tự của các quan hệ xã
hội. Luật pháp được ban hành để đạt được mục tiêu công lý. Vì lý do này, cần phải
có những luật công bằng, nghĩa là, tương ứng với một xã hội công bằng, trong đó
tất cả mọi người đều được công nhận một cách hiệu quả về phẩm giá, không tuỳ
thuộc vào công trạng. Nhiệm vụ của chính trị là xây dựng và thực thi luật pháp
cho phép mọi người được hưởng lợi ích như nhau để họ có thể sống tự do, tương ứng
với phẩm giá của họ. Một xã hội công bằng là một xã hội giúp mọi công dân trở
nên “công bằng”, nghĩa là có thể đóng góp vào việc xây dựng một cách có trách
nhiệm xã hội mà họ thuộc về. Điều này bao gồm hành động chính trị tiến hành với
các tiêu chí không mang tính đảng phái, nhưng tìm kiếm công ích, trong khi nhận
thức được những hạn chế của chính mình.
Câu hỏi đặt ra là liệu lòng thương xót có thể và
/ hoặc cũng là động lực của hành động chính trị hay không. Người ta thường cho
rằng tình cảm này phải được dành riêng cho các mối quan hệ giữa các cá nhân:
chính trị chỉ có nhiệm vụ thực hiện công bằng. Tuy nhiên, nếu công bằng bị tách
rời khỏi lòng thương xót, người ta sẽ tiếp tục với một ý tưởng hẹp hòi về công
bằng vì nó bị giới hạn trong chiều kích trừng phạt và phân phối, quên đi chiều
kích phục hồi. Về vấn đề này, cần nhắc lại nguyên tắc đã được hiền triết Cicero
xây dựng, theo đó công bằng bao gồm việc trao cho mỗi người những gì phù hợp với
họ theo phẩm giá. Bây giờ, nếu phẩm giá có giá trị “hữu thể học” để thực thi
công bằng, thì nó có nghĩa là khôi phục phẩm giá đã mất cho tất cả mọi người;
Và đây là công trình của lòng thương xót.
Vai trò của lòng thương xót trong đời sống Giáo
hội ngày nay là gì?
Để trả lời câu hỏi này, chúng ta phải tìm hiểu
thực hành và giáo huấn của Chúa Giêsu, mà chính các môn đệ của Người phải thi
hành. Cần phải xác định rõ rằng lòng thương xót không có nghĩa là buông lỏng.
Thật vậy, nếu lòng thương xót có mục đích chữa lành con người, thì điều này cần
phải có những con đường hoán cải, nghĩa là điều chỉnh cảm xúc, hành động, tư tưởng,
phù hợp với phẩm giá Thiên Chúa ban. Khi đọc lại cuộc đời mình, Thánh Phaolô đã
thú nhận chính lòng thương xót đã làm cho đời sống ngài thay đổi (x. 1Tm 1, 13-16).
Bối cảnh văn hóa cũng ảnh hưởng trên các môn đệ
Chúa Giêsu, theo hướng hợp pháp hóa mọi hình thức suy nghĩ và hành động, và mọi
người có xu hướng trước hết là mong đợi được nhìn nhận. Tuy nhiên, bằng cách
này, lòng thương xót bị giảm xuống thành sự chấp nhận vốn không làm cho chúng
ta lớn lên. Trái lại, lòng thương xót Chúa làm cho sự biến đổi chuyển động. Và
Giáo hội có nhiệm vụ làm cho tiến trình này trở nên khả thi. Nếu Tin Mừng không
đưa ra các tiến trình thay đổi, Tin Mừng sẽ không còn là một sứ điệp cứu độ,
nghĩa là người tạo ra những cách sống mới. Rõ ràng là điểm khởi đầu của tiến
trình biến đổi được đưa ra là việc đón nhận mọi người, không thành kiến hay
phân biệt, về khả năng hiệu quả: không có hai yếu tố này, con người không thể sống
kinh nghiệm về Thiên Chúa Cứu Độ.
Mối quan hệ giữa ân sủng, lòng thương xót và sự
tha thứ là gì? Ba chiều kích có nhất thiết phải kết nối với nhau không?
Khởi đầu là ân sủng, nghĩa là cử chỉ nhân từ của
Thiên Chúa, được tỏ lộ cả trong việc đưa thực tại vào hiện hữu và phục hồi nó
khi nó đã bị biến dạng. Trong Tông sắc Misericordiae
vultus - Dung mạo Lòng Thương Xót, Đức Thánh Cha Phanxicô lấy từ Thánh Tôma Aquinô ý tưởng rằng
quyền năng tuyệt đối của Thiên Chúa được thể hiện trước hết trong lòng thương
xót và tha thứ, như vẫn được cầu nguyện trong Lời nguyện Nhập lễ Chúa nhật XXVI thường
niên. Trong bối cảnh của mối liên hệ giữa ba chiều kích - ân sủng, lòng thương
xót, sự tha thứ - là những đặc điểm của Thiên Chúa được minh họa bởi các bản
văn Kinh Thánh. Thiên Chúa là Đấng thương xót và thành tín. Người ta có thể
nói: Chúa thương xót vì Người thành tín. Thực vậy, Thiên Chúa trung tín trong
việc làm cho nhân loại được sống, và khi nhân loại tỏ ra không thể giữ giao ước,
Thiên Chúa ban cho con người khả thể mới cho phép họ trở về với Người. Do đó,
lòng thương xót là sự thể hiện vĩnh viễn và vô điều kiện về căn tính của Thiên
Chúa, nó chuyển thành sự tha thứ khi sự bất trung của con người lấn át.
Tha thứ không đồng nghĩa với việc phủ nhận điều
ác đã làm; đúng hơn, nó bao gồm việc cung cấp một cách vô điều kiện sự khởi đầu
của một tiến trình phục hồi, thoát khỏi những tội lỗi làm con người biến dạng.
Vì lý do này, như lời nguyện nhập lễ được trích dẫn trên, quyền năng Thiên Chúa
đang bị đe dọa trong sự tha thứ. Không phải ngẫu nhiên mà trong phụng vụ Bí tích
Rửa tội và Hòa giải, lặp lại cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và Nicôđêmô, ngôn
ngữ tái sinh được sử dụng, đó là hoạt động của Thánh Thần, nghĩa là sức mạnh sống
động và ban sự sống của Thiên Chúa.
Đâu là những trở ngại hay thách đố mà thế giới
ngày nay có thể gặp trong việc chấp nhận và thực hành hòa giải như sự tha thứ?
Trở ngại lớn nhất bao gồm việc cho rằng tha thứ là dấu hiệu của sự yếu đuối, vì nó được hiểu là sự thất bại trong việc nhận ra điều ác đã phạm. Cách suy nghĩ này được phản ánh bởi định hướng tự ái, phổ biến trong văn hóa ngày nay: về cơ bản mọi người đều muốn có sự chấp thuận và, nếu họ không xứng đáng, họ muốn được biện minh. Đây là một nghịch lý: một mặt, người đã phạm sai lầm phải bị trừng phạt. Mặt khác, nếu người ta sai, họ sẽ không muốn bị trừng phạt. Thật ra – như Đức Thánh Cha Phanxicô đã minh họa trong thông điệp Fratelli tutti – tha thứ là một tiến trình vất vả, không che giấu sự dữ đã làm, nhưng không để mình bị lừa gạt trong đó.
Nguồn: vaticannews.va/vi
- Sứ điệp Đức Thánh Cha gửi Đại hội của Tổ chức Luật Phát triển Quốc tế ( 01/12/2023)
- Sứ điệp Đức Thánh Cha gửi tham dự viên “Diễn đàn Hòa bình Paris 2023” lần thứ VI ( 12/11/2023)
- Tiếng nói của các Giáo hoàng về Giêrusalem và Thánh Địa ( 08/11/2023)
- Đức Phanxicô trông cậy vào “sự khôn ngoan của con người” để ngăn chăn sự leo thang của chiến tranh ( 03/11/2023)
- Sứ điệp Đức Thánh Cha gửi Tham dự viên Hội nghị Quốc tế về Thông điệp Pacem in Terries ( 22/09/2023)
- Toàn văn Sứ điệp Đức Thánh Cha gửi cuộc Gặp gỡ Quốc tế Cầu nguyện cho Hòa bình, 2023 ( 15/09/2023)
- Diễn văn của Đức Thánh Cha trong buổi gặp gỡ chính quyền, xã hội dân sự và ngoại giao đoàn ở Mông Cổ ( 02/09/2023)
- Diễn văn Đức Thánh Cha Phanxicô dành cho Cuộc họp Thường niên lần thứ XIV của Mạng lưới các nhà Lập pháp Công giáo quốc tế ( 28/08/2023)
- Đức Hồng y Zuppi trả lời câu hỏi: "Tại sao Chúa cho phép chiến tranh xảy ra ở Ucraina?" ( 23/08/2023)
- Diễn văn của Đức Thánh Cha Phanxicô cho phái đoàn luật sư của các nước thành viên của Hội Đồng Châu Âu, những người ký bản kêu gọi Vienna ( 23/08/2023)