GP Kontum
Nhà thờ Chánh tòa Giáo phận Kontum
GIỚI THIỆU SƠ LƯỢC VỀ GIÁO PHẬN KONTUM
I. LƯỢC SỬ HÌNH THÀNH
Công cuộc loan báo Tin Mừng cho
vùng Truyền giáo Tây Nguyên đã bắt đầu dưới thời Đức Giám mục Stêphanô Cuénot
(Thể), Đại diện Tông tòa Đông Đàng Trong (Qui Nhơn). Đức Giám mục đã trực tiếp
chỉ đạo công việc từ hầm trú suốt 26 năm trời (1835-1861). Khởi đầu, ngài đã
sai những giáo dân như Ông Cả Ninh, Ông Cả Quới (năm 1939 và năm 1842), Ông Cả
Ân (năm 1848) dẫn đầu các đoàn truyền giáo đi tiên phong.
Sau nhiều thất bại, năm 1848, vào
lúc miền xuôi đang trải qua những tháng năm cấm cách, Đức cha lại sai thầy sáu
Do tiếp tục tìm đường mở lối. Thầy đã đưa các vị thừa sai vào được miền Tây
Nguyên hai năm sau đó (1850). Mặc dù khó khăn chồng chất, gian nan ngập tràn,
nhưng nhờ sự hướng dẫn hy sinh, gan dạ và khôn ngoan của thầy sáu Do, các vị
truyền giáo - gồm giáo dân, thầy giảng, chủng sinh, linh mục đã vượt qua thử
thách và kiên trì đem Ánh sáng Tin Mừng lên miền Trường Sơn cách trở. Năm 1851,
nhờ ơn Chúa quan phòng đã thiết lập được các trung tâm truyền giáo đầu tiên cho
người bản xứ Bahnar, Jơlơng, Rơngao, Xêđang, Jarai, mà thời đó gọi chung là Miền
Truyền Giáo Bahnar.
Tất cả mọi việc điều hành đều phụ
thuộc Giáo phận Qui Nhơn. Tuy nhiên, vì có địa thế hiểm trở, tách biệt với miền
Đồng Bằng do rừng núi trùng điệp bao quanh, giao thông trắc trở và và các thổ âm
khác biệt, phong tục tập quán xa lạ, nên Miền truyền giáo Tây Nguyên cần có những
vị Bề trên tại chỗ Đại diện Đức Giám mục Đông Đàng Trong để giải quyết kịp thời
và đúng mực những nhu cầu địa phương.
Sau đây là các Bề trên miền Truyền
giáo Kontum: Cha Bề trên Gioan Phêrô Combes Bê (1851-1857); Cha Bề trên Phêrô
Dourisboure Ân (1857-1885, qua đời 1890); Cha Bề trên Jules Vialleton Truyền
(1885-1909); Cha Bề trên Jean Baptiste Guerlach Cảnh (1910-1912); Cha Bề trên
Emile Kemlin Văn (1912-1924); Cha Bề trên Martial Jannin Phước (1924-1932).
Sau 82 năm (1850-1932), Miền Truyền
giáo Kontum phát triển về mọi phương diện, được công nhận là xứng đáng và hội đủ
điều kiện để được nâng lên thành một Giáo phận Tông Tòa. Ngày 14.01.1932, Tòa
Thánh loan báo quyết định của Đức Thánh Cha Piô XI tách Miền Truyền giáo Tây
Nguyên khỏi Giáo phận Tông tòa Qui Nhơn để thành lập Giáo phận Tông tòa Kontum.
Giáo phận Tông tòa Kontum chính thức thành lập ngày 18.01.1932.
Ngày 15.01.1933 Tòa Thánh ban sắc
chỉ bổ nhiệm Cha Bề trên Jannin (Phước) làm Giám mục Tông tòa tiên khởi, và
ngày 23.06.1933, buổi lễ tấn phong được cử hành long trọng tại nhà thờ Chính
tòa Kontum.
Ngày 24.11.1960, Tòa Thánh đã ban
hành Tông hiến Venerabilium Nostrorum thiết lập hàng giáo phẩm Việt Nam. Giáo
phận Tông tòa Kontum trở thành Giáo phận Chính tòa và Đức giám mục Phaolô Seitz
(Kim) trở thành Giám mục Chính tòa Giáo phận Kontum.
II. ĐỊA LÝ VÀ DÂN SỐ
1. Địa lý và dân số thời kỳ
truyền giáo
Vùng Truyền giáo Kontum lúc khởi
đầu chiếm một phần lớn dãy núi cao nguyên phía tây tây nam của Giáo phận Đàng
Trong, bao gồm 3 tỉnh người dân tộc thiểu số là Kontum, Pleiku, Ban Mê Thuột của
Việt Nam, và tỉnh Attopeu thuộc nước Lào, diện tích khoảng 70.000 km2, với chiều
rộng (Đông-Tây) khoảng 200-250 km; chiều dài (Bắc-Nam) khoảng 450-500 km. Phía
Đông giáp Gp. Qui Nhơn, dài hơn 500 km và bị dãy Trường Sơn chia cắt; phía Bắc
giáp Gp. Huế; phía Tây giáp Lào và Campuchia; phía Nam giáp Gp. Sài gòn. Phần
lớn diện tích Giáo phận nằm ở phía tây dãy Trường Sơn, có địa hình
thấp dần từ bắc xuống nam và từ đông sang tây. Địa hình khá đa dạng: đồi
núi, cao nguyên và vùng trũng xen kẽ nhau. Khí hậu thuộc vùng khí hậu cao
nguyên nhiệt đới gió mùa, được chia làm 2 mùa rõ rệt: mùa mưa và mùa khô; độ ẩm
cao và lượng mưa tương đối lớn.
Dân số toàn vùng: 750.000 người,
đa số đồng bào Thượng 700.000 người; đồng bào Kinh: 30.000 người và đồng bào
Lào: 20.000 người. Giáo dân Công giáo: 23.652 người, trong đó Giáo dân Thượng:
18.119 người; Giáo dân Kinh: 5.533 người. Số linh mục: 27 Lm, gồm 13 Thừa sai
Pháp, 11 Lm Việt Nam và 3 Lm Bahnar; Tiểu chủng sinh: 15; Đại chủng sinh: 04; Nữ
tu các dòng: 34; Yao phu: 225; Thầy giảng: 19; Giáo lý viên: 160.
Đến năm 1944, tỉnh Attopeu (diện
tích 4.609,35 km2) tách khỏi giáo phận Kontum, nhập về Lào. Năm 1960, Tòa
Thánh thành lập Hàng giáo phẩm Việt Nam. Giáo phận chính tòa Kontum: Số giáo
dân 73.966 giáo dân (Kinh: 46.611 + Thượng: 27.355); Số Linh mục: 105 Lm (MEP
39+Việt, Bahnar:66); Đại chủng sinh: 37 thầy; Tiểu chủng sinh: 180 chú; Dự
tòng: 18.802 người; Xứ họ: 271 xứ họ.
Ngày 22.06.1967, Tòa Thánh tách tỉnh
Daklak khỏi Kontum lập giáo phận mới Ban Mê Thuột gồm 3 tỉnh: Daklak, Quảng Đức
và Phước Long. Giáo phận Kontum còn lại 3 tỉnh: Kontum, Pleiku và Phú Bổn, diện
tích: 25.573 km2; Linh mục: 84 Lm (32 Lm MEP, 50 Lm Việt và 1Lm Bahnar); Giáo
dân79.945 người (47.000 Kinh+32.945 Thượng); 44 địa sở; 205 giáo họ.
2. Địa lý và dân số hiện
nay
Giáo phận Kontum hiện nay (2017),
gồm 2 tỉnh Kon Tum và Gia Lai:
- Diện tích: 25.225 km2. Dân số:
1.833.200 người.
- Tổng số giáo dân (2017):
342.281 (Người Kinh: 101.595? ; Người Thượng: 226.789?)
- Giáo hạt và giáo xứ: 10 giáo hạt
(Miền Kontum 3 giáo hạt, Miền Pleiku 7 giáo hạt)
- Dòng tu: 33 Dòng, Tu Hội (22
Dòng Nữ, 11 Dòng Nam)
- Số nam nữ tu sĩ: 656 (560 nữ tu
, 96 nam tu sĩ); - Số Cộng đoàn: 128.
- Nhà Mồ côi: 7 nhà, 757 em
(Kontum 6 nhà, 718 em; Gia Lai 1 nhà, 39 em).
- Nhà Mẫu Giáo: 20 nhà, 3016 em (Kontum 7 nhà,
563 em; Gia Lai 13 nhà, 2453 em) .
- Nhà Trẻ Làng: 20 nhà, 1038 em
(Kontum 4 nhà, 290 em; Gia Lai 16 nhà, 748 em).
- Nhà Nội Trú: 68 nhà, 3147 em
(Kontum 30 nhà, 1287 em; Gia Lai 38 nhà 1860 em).
III. NHÂN SỰ
1. Giám mục đương nhiệm: Đức
Cha Aloisiô Nguyễn Hùng Vị
2. Các Giám mục tiền nhiệm:
1/ Đức Cha Martial Jannin Phước
(1933-1940)
2/ Đức Cha Gioan Liévin Sion Khâm
(1942-1951)
3/ Đức Cha Phaolô Leo Seitz Kim
(1952-1960 Tông Tòa) (1960-1975 Chính Tòa)
4/ Đức Cha Alexis Phạm Văn Lộc
(1975-1995)
5/ Đức Cha Phêrô Trần Thanh Chung
(1981-2003)
6/ Đức Cha Micae Hoàng Đức Oanh
(2003-2015)
3. Linh mục: Tổng số 160
linh mục (Lm. Dòng: 72; Lm. Triều: 88)
Số Cha quản hạt: 10; Số Cha sở: 86;
Số Cha phó: 46; Số Cha mục vụ khác: 17.
4. Chủng sinh:
(Chủng sinh học xong: 3; Đang học:
88; Dự bị: 60)
- Đại Chủng viện Huế : 78 thầy (4
lớp thần học, 2 lớp triết học và một lớp tu đức).
- Ứng sinh Nhà Bok Do (Pleiku):
29 em (24 em ứng sinh chuẩn bị gia nhập ĐCV, 5 em đang theo học Cao đẳng).
- Ứng sinh Nhà Bok Kiơm (Sài gòn): 31 em (5 em
học luyện thi đại học tại nhà, số còn lại theo học tại các trường Cao đẳng và Đại
học tại Sài gòn).
- Lớp thực tập: 10 thầy ; -Lớp mãn
khóa ĐCV: 4 thầy.
5. Tu sĩ: Tổng số tu sĩ
nam nữ: 656 (560 nữ tu , 96 nam tu sĩ)
Tổng số dòng tu: 33 (11 dòng nam,
22 dòng nữ).
IV. CƠ CẤU TỔ CHỨC TRONG GIÁO
PHẬN
1/ Giám mục
Giám mục đương nhiệm: Aloisiô
Nguyễn Hùng Vị
Giám mục hưu: Micae Hoàng Đức
Oanh
Giám mục hưu: Phêrô Trần Thanh
Chung
2/ Tổng Đại Diện: Lm.
Phêrô Nguyễn Vân Đông
3/ Các Linh Mục Đặc Trách:
- Thư ký Toà Giám Mục: Lm. Luy
Gonzaga Nguyễn Quang Hoa
- Quản lý Giáo Phận: Lm. Giuse Trần
Văn Bảy
- Hạt Trưởng và các Ban Mục
vụ (xem phần phụ lục)
V. CƠ SỞ GIÁO PHẬN
1. Nhà thờ Chính tòa (13
Nguyễn Huệ, Kontum):
Nhà thờ Chính tòa được làm hoàn
toàn bằng các danh mộc: cà chít, sao, vách trét đất trộn rơm… Nhà thờ được khởi
công xây dựng năm 1913, khánh thành vào lễ Hiển Linh năm 1918 với nét mỹ thuật
gô-tích đẹp đẽ và uy nghi mang thánh hiệu Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội. Nhà thờ
Chính tòa Kontum còn được biết nhiều dưới tên gọi mộc mạc “Nhà thờ Gỗ”.
2. Chủng viện Thừa sai Kontum (146
Trần Hưng Đạo, Kontum)
Chủng viện được khởi công xây dựng
năm 1934, do Đức Cha Martial Jannin Phước, hoàn thành nửa cánh phải (Probatorium=Trường
thử) và khai giảng khóa đầu tiên vào đầu năm 1935. Chủng viện được xây dựng
hoàn thành hoàn toàn vào năm 1938. Tòa nhà toàn bằng gỗ quí: cà chít, sao…, có
2 tầng lầu và một tầng trệt, dài 100m, các cột nhà được đặt trên bệ xây xi-măng
cao 2m. Nơi đây, chủng sinh được đào tạo liên tục từ sau năm 1935. Đến năm
1975, việc đào tạo phải tạm dừng vì thời cuộc.
Hiện nay (2016), Giáo phận đang
đào tạo các ứng sinh chủng viện tại hai cơ sở:
- Nhà Bok Do, trong khuôn viên
giáo xứ Đức An, đường Wừu, Tp. Pleiku
- Nhà Bok Kiơm tại Sài gòn: các ứng
sinh trú ngụ tạm thời tại 2 địa điểm thuộc giáo xứ An Lạc và giáo xứ Chí Hòa.
3. Tòa giám mục (146
Trần Hưng Đạo, Kontum)
TGM tọa lạc cạnh khu đất phía sau
Chủng viện về hướng tây nam, được hoàn thành và sử dụng vào năm 1966, thời Đức
Cha Phaolô Seitz Kim.
4. Trung tâm mục vụ
Hiện tại, Giáo phận sử dụng tòa
nhà Chủng viện Thừa sai Kontum làm Trung tâmm Mục vụ, bên trong gồm:
- Phòng Truyền Thống của Giáo phận
thiết lập năm 1998 dịp 150 Truyền giáo Tây Nguyên (1848-1998)
- Văn phòng Ban Mục vụ Truyền
thông, Văn phòng Ban Mục vụ Giáo lý… nơi ở và làm việc của linh mục Tổng đại diện
và một số linh mục…
5. Trung Tâm Hành Hương Đức Mẹ
Măng Đen (Xã Đăk Long, Huyện Kon Plông, Kontum)
Tượng Đức Mẹ Fatima tại Măng Đen
(còn được gọi là Tượng Đức Mẹ Măng Đen hay Đức Mẹ Cụt Tay) là một di tích, điểm
hành hương Công giáo của Giáo phận Kontum. Ngày 28.12.2006, ĐGM giáo phận dẫn đầu
phái đoàn đã đến viếng Tượng Đức Mẹ lần đầu tiên. Từ năm 2007, rất nhiều người
lương giáo đã đến cầu nguyện tại đây, hình thành điểm hành hương tôn giáo. Ngày
21.10.2017, Thánh lễ đặt viên đá đầu tiên xây dựng Đền Thánh Đức Mẹ Sầu Bi Măng
Đen do Đức giám mục Aloisiô Nguyễn Hùng Vị chủ tế cùng linh mục đoàn, đông đảo
tu sĩ và giáo dân.
VI. HOẠT ĐỘNG MỤC VỤ, LOAN BÁO
TIN MỪNG VÀ BÁC ÁI XÃ HỘI
1. Đào tạo nhân sự
Việc đào tạo linh mục, tu sĩ và
tông đồ giáo dân được xem như mục tiêu ưu tiên hàng đầu trong Giáo phận. Cụ thể
như sau:
- Xây dựng, củng cố Ban chức việc
như: các Câu, Biện (những giáo dân tốt trong xứ đạo, luôn đi đầu trong phục vụ
theo tinh thần Chúa Kitô). Người chức việc cùng với linh mục phụ trách điều
hành xứ đạo.
- Đào tạo Giáo phu: tiếp nối và canh tân Hội
Giáo phu.
- Cổ võ việc học văn hóa như chìa
khóa nâng cao phẩm giá con người. Bằng nhiều cách thế, Giáo phận giúp con em học
sinh nghèo, không phân biệt dân tộc Kinh hay dân tộc thiểu số.
- Đào tạo giáo lý viên: giúp giới
trẻ có tinh thần phục vụ, dấn thân, hy sinh biết đem Tin Mừng đến người khác.
- Kiện toàn và định hướng rõ nét
linh đạo của hội đoàn Công giáo tiến hành để phát uy sức sống của người tông đồ
giáo dân: như Lego Maria, Thiếu Nhi Thánh Thể…
2. Nâng cao đời sống người dân
- Vấn đề luôn ưu tư, luôn lo lắng
băn khoăn trăn trở, là làm thế nào tìm ra những giải pháp tốt để “tháo gỡ” cho
người dân tộc thoát khỏi phần nào đó đời sống nghèo khó, bệnh tật, và làm sao
cho con cái của họ không phải chịu sự thiệt thòi.
- Phục vụ người nghèo, người lầm
lỡ, người bệnh tật…giúp họ có được phẩm giá xứng hợp.
3. Xây dựng cơ sở tôn giáo
Không hình thức, phô trương nhưng
quan tâm đến nhu cầu tối thiểu và cần thiết. Trong giáo phận, số họ đạo người
Kinh hiện chưa có nhà thờ, nhà nguyện là 57 họ đạo (tương ứng với số giáo dân
13.318 người); Số Làng người Thượng chưa có nhà thờ, nhà nguyện là 405 Làng
(tương ứng với số giáo dân 83.160 người).
TTHH Đức Mẹ Măng Đen đã khởi công
xây dựng, rất cần chung tay góp sức để sớm hoàn thành đáp ứng nhu cầu tâm linh
và tôn giáo của đồng bào có đạo và không có đạo.
VII. ĐỊA CHỈ LIÊN LẠC
- Tòa Giám mục Giáo phận Kontum
Địa chỉ: 146 Trần Hưng Đạo,
Kontum
Số điện thoại văn phòng: (260)
3862.372
E-mail: tgmktum@gmail.com
- Cha Thư ký: 0914.434.362; E-mail:
quanghoaluy@gmail.com
- Website của giáo phận http://giaophankontum.com
Văn Phòng TGM Giáo phận Kontum
Cập nhật ngày 31/12/2017
PHỤ LỤC
1. Hạt Trưởng các Hạt
Kontum: Lm. Giuse Đỗ Hiệu
Đăk Hà: Lm. Phaolô Nguyễn Đức Hữu
Đăk Mót: Lm. Phanxicô Xaviê Lê
Tiên
Pleiku: Lm. Đaminh Đinh Quang
Vinh
Ayunpa: Lm. Gioan Nguyễn Đức Trường
An Khê: Lm. GB. Trần Quang Truyền
Chư Păh: Lm. Phanxicô Assisi Phạm
Ngọc Quang
Chư Prông: Lm. Đaminh Nguyễn Xuân
Hùng
Chư Sê: Lm. Antôn Hoàng Văn Lợi
Mang Yang: Lm. Tôma Aquinô Trần
Duy Linh
2. Ban Mục Vụ
Phụng tự: Lm. Phêrô Nguyễn Đình Lộc
Thánh Kinh: Lm. Phanxicô Xaviê Lê
Tiên
Thánh Nhạc: Lm. Vinhsơn Nguyễn
Thành Trung (OFM)
Tòa Án Hôn Phối: Lm. Giuse Trần
Ngọc Tín
3. Ban Giáo Lý và Giáo Dục
Chủng Sinh: Lm. Phaolô Đậu Văn Hồng
Gia Đình Ơn Gọi và Gia Đình
Phanxicô Xaviê: Lm. Phaolô Đậu Văn Hồng
Giáo Dục: Lm. Đaminh Trần Văn Vũ.
Giáo Lý: Lm. Gioakim Nguyễn Hoàng
Sơn
Giới trẻ: Lm. Gioan B. Hồ Quang
Huyên
Thiếu Nhi Thánh Thể: Lm. Phaolô
Nguyễn Văn Công (CSsR)
4. Ban Giáo Sĩ và Tu Sĩ
Linh mục: Lm. Phêrô Nguyễn Vân
Đông
Thường Huấn: Lm. Luy Gonzaga Nguyễn
Quang Vinh
Tu sĩ: Lm. Giuse Hoàng Hữu Chi
(OFM)
Dòng Ảnh Phép Lạ: Lm. Phêrô Nguyễn
Đình Lộc
5. Ban Truyền Giáo, Văn Hóa và
Truyền Thông
Loan Báo Tin Mừng và Tân Tòng:
Lm. Tôma A. Trần Duy Linh
Truyền Thông: Lm. Gioakim Nguyễn
Hoàng Sơn
Văn Hóa: Lm. Gioakim Lương Đông Vỹ
BAXH – Caritas: Lm. Giacôbê Trần
Tấn Việt
6. Ban Đoàn Thể Công Giáo Tiến
Hành
Chức Việc: Lm. Giuse Đỗ Hiệu.
Công Lý Hòa Bình: Lm. Bênêđíctô
Nguyễn Văn Bình
Gia Đình: Lm. Luy G. Nguyễn Quang
Vinh
Giáo Dân - Di Dân: Lm. Giuse Đinh
Văn Cao (CSsR)
Hiền Mẫu: Lm. Bênêđictô Nguyễn
Văn Bình
Hiền Phụ: Lm. Phêrô Hoàng Văn Số
(SDB)
Legio Mariae: Lm. Phaolô Nguyễn Đức
Hữu
Yao Phu - Kŏ Khul: Lm. Phaolô
Nguyễn Đức Hữu
7. Ban Phát Triển và Xây Dựng
Phát Triển: Lm. Giuse Đỗ Hiệu
Xây dựng: Lm. Phaolô Nguyễn Đức Hữu
- TGP Huế ( 01/12/2017)
- GP Ban Mê Thuột ( 01/12/2017)
- GP Đà Nẵng ( 01/12/2017)
- GP Nha Trang ( 01/12/2017)
- GP Qui Nhơn ( 01/12/2017)