Đức Giáo hoàng Phanxicô và thừa tác vụ linh mục: 10 chủ đề nền tảng
ĐỨC GIÁO HOÀNG
PHANXICÔ VÀ THỪA TÁC VỤ LINH MỤC
KHÁM PHÁ TẦM NHÌN NĂNG ĐỘNG CỦA ĐỨC GIÁO
HOÀNG PHANXICÔ VỀ THỪA TÁC VỤ LINH MỤC
MƯỜI CHỦ ĐỀ NỀN TẢNG
James Kroeger
Lm. Giuse Nguyễn Hồng Quân chuyển ngữ
WHĐ, 05-06-2020 – Khi còn sinh thời, thánh giáo hoàng Gioan
Phaolô II có thói quen gửi thư cho các linh mục vào thứ Năm tuần thánh mỗi năm.
Những lá thư đó đã được gom góp lại thành một tác phẩm quý giá cho đời sống và
thừa tác vụ linh mục. Đức giáo hoàng Phanxicô hiện nay không gửi thư cho các
linh mục vào thứ Năm tuần thánh, tuy nhiên ngài nói về đời sống và sứ vụ linh mục
rất nhiều, ở nhiều nơi và trong nhiều lúc khác nhau. Giáo huấn của ngài phản
ánh một tầm nhìn mới mẻ, năng động, và đầy tính dấn thân về con người và sứ vụ
linh mục.
Trong Đại hội Liên Hội đồng Giám mục Á châu tại
Colombo, Sri Lanka, vào tháng 12 năm 2016, cha James H. Kroeger, MM., đã tặng
cho các giám mục tập sách nhỏ nhan đề “Pope Francis
and Priesthood”, trong đó ngài tổng hợp
những suy tư và giáo huấn của Đức giáo hoàng Phanxicô thành 10 chủ đề nền tảng
cho đời sống linh mục.
Cha James H. Kroeger, MM, có bằng thạc sĩ và tiến
sĩ về truyền giáo học từ đại học Gregoriana ở Rôma; ngài đã phục vụ truyền giáo
tại châu Á (Philippines và Bangladesh) kể từ năm 1970, làm việc tại các giáo xứ
và phục vụ chủ yếu trong công tác giáo dục – đào tạo các chủng sinh, giáo lý
viên, và giáo dân nòng cốt. Hiện nay cha dạy Kitô học, Giáo Hội học, Truyền
giáo học, và “Thần học châu Á” ở Loyola School of Theology, Học viện Mục vụ
Đông Á, và tại Trung tâm Giáo lý Mẹ của Cuộc sống ở Metro Manila. Ngài đã viết
nhiều về Liên Hội đồng Giám mục Á châu (FABC) và thần học Philippines, truyền
giáo, đối thoại liên tôn, và về Công đồng Vatican II.
Thiết nghĩ bản tổng hợp của cha Kroeger là món quà đáng quý cho anh em linh mục trong đời sống thiêng liêng và mục vụ.
Đức Giáo hoàng Phanxicô thực sự là một “Giáo hoàng của dân chúng,”
ngài kết nối và tương tác tốt với dân chúng thuộc mọi lứa tuổi, mọi hoàn cảnh,
các tầng lớp xã hội và lối sống. Người ta dành cho ngài nhiều thứ “đầu tiên”:
giáo hoàng Dòng Tên đầu tiên; giáo hoàng đầu tiên lấy danh hiệu Phanxicô; giáo
hoàng ngoài châu Âu đầu tiên trong hơn 1.000 năm; giáo hoàng đầu tiên được vinh
danh trong năm 2013 bởi tờ Thời Báo
(Time) như là “Nhân vật của năm”, danh hiệu uy tín được trao cho người “có ảnh
hưởng nhất đến các sự kiện của năm”.
Đức giáo hoàng
Phanxicô thường được nhớ đến vì óc hài hước của mình và những câu nói đáng nhớ,
người đã có hơn mười triệu người theo dõi trên Twitter. Khi được bầu làm giáo
hoàng trong năm 2013, ngài đã nói với các vị hồng y khác: “Xin Chúa tha thứ cho
những gì các vị đã làm”. Một đứa trẻ đã từng hỏi ngài nếu nó muốn trở thành
giáo hoàng thì sao, và đây là phản ứng của ngài: “Con điên rồi khi muốn được
làm giáo hoàng”. Những phát biểu của ngài có trí tuệ sâu sắc, thể hiện một cách
ngắn gọn và đáng nhớ. “Một chút thương xót làm cho thế giới bớt lạnh lẽo và
công bằng hơn”. “Để khôn ngoan, hãy sử dụng ba cụm từ: suy nghĩ tốt, cảm nhận tốt,
và làm việc tốt. Và để được khôn ngoan, hãy để cho mình biết ngạc nhiên trước
tình yêu của Thiên Chúa!”
Ngoài những hiểu
biết về các chủ đề mang tính thời sự, Đức giáo hoàng Phanxicô còn nói chuyện
cách sâu sắc về linh mục và chức linh mục ở nhiều dịp khác nhau (ví dụ như lễ Dầu,
lễ Truyền chức, Năm thánh Linh mục, v.v...). Phần trình bày khiêm tốn này cố gắng
khai thác kho tàng phong phú về những hiểu biết của Đức Phanxicô về thừa tác vụ
linh mục, trích dẫn rộng rãi những lời nói của Đức giáo hoàng; tập sách này
xoay quanh mười chủ đề then chốt. Phải thừa nhận rằng, đây chỉ là một nỗ lực của
tác giả để “chuyên đề hóa” [thematize] tư tưởng của Đức giáo hoàng Phanxicô về
chức linh mục. Hai mươi bốn tài liệu có liên quan nhất có chứa “chất liệu linh
mục” được trích dẫn (xem trang cuối cùng cho các nguồn thư tịch và các phương
pháp trích dẫn). Bây giờ đã đến lúc trình bày những “suy tư về linh mục” của Đức
giáo hoàng Phanxicô cách trực tiếp.
I. THẢ NEO ĐỜI LINH MỤC TRONG TƯƠNG QUAN VỚI CHÚA
KITÔ
Trong Tông huấn đầu
tiên của mình, Niềm Vui của Tin Mừng (3),
Đức Phanxicô trực tiếp mời tất cả mọi người (linh mục nói riêng) gắn bó hằng
ngày với Chúa Giêsu. “Tôi mời tất cả các Kitô hữu, ở khắp mọi nơi, ngay thời điểm
này, hãy làm mới cuộc gặp gỡ cá nhân với Chúa Giêsu Kitô... Tôi xin tất cả anh
chị em hãy làm điều này luôn luôn mỗi ngày. Không ai nên nghĩ rằng lời mời này
không dành cho mình... Thiên Chúa không làm thất vọng những ai dám liều lĩnh
như thế; bất cứ khi nào chúng ta tiến bước về Chúa Giêsu, chúng ta nhận ra rằng
Ngài đã ở đó, đang chờ đợi chúng ta với vòng tay rộng mở” (CC). “Mỗi người
chúng ta đều rất thân thương đối với Thiên Chúa, Đấng yêu thương chúng ta, chọn
chúng ta và kêu gọi chúng ta để phục vụ... Mỗi ngày chúng ta nên tin tưởng cầu
xin điều này, xin Chúa Giêsu chữa lành và xin được nên giống Chúa hơn, Đấng
‘không còn gọi chúng ta là tôi tớ nhưng là bạn hữu' (Ga 15,15)” (SS). Đây là một
thách thức rõ ràng cho các linh mục: sống đồng hình đồng dạng với Đức Kitô ngay
giữa thế giới hôm nay. Nói cách đơn giản là tất cả mọi sự được cắm neo nơi tình
bạn của chúng ta với Chúa Giêsu.
Đức giáo hoàng
Phanxicô đã nói về “sự mệt mỏi” của linh mục trong bài giảng lễ Dầu năm 2015,
lưu ý là làm thế nào để những mệt mỏi đó có thể mang chúng ta đến gần Chúa Kitô
hơn. “Sự mệt mỏi của các linh mục! Anh em có biết là tôi thường xuyên nghĩ đến
sự mỏi mệt này không, điều mà tất cả linh mục đều có kinh nghiệm? Tôi nghĩ và cầu
nguyện về điều đó, thường xuyên, đặc biệt là khi chính bản thân mình mệt mỏi...
Bất cứ khi nào chúng ta cảm thấy bị đè nặng bởi công việc mục vụ, chúng ta có
thể bị cám dỗ để nghỉ ngơi theo sở thích, như thể nghỉ ngơi tự nó không phải là
một quà tặng của Thiên Chúa... Sự mệt mỏi của chúng ta là quý giá trong mắt của
Chúa Giêsu, Đấng ôm ấp và nâng chúng ta lên... Đừng bao giờ quên rằng chìa khoá
cho sứ vụ linh mục hiệu quả nằm ở chỗ chúng ta nghỉ ngơi như thế nào, và chúng
ta nhìn ra sao cách Thiên Chúa giải quyết sự mệt mỏi của chúng ta. Học biết nghỉ
ngơi không phải là chuyện dễ dàng! Điều này nói nhiều về sự tin tưởng và khả
năng của chúng ta để nhận ra rằng chúng ta cũng là con chiên; chúng ta cần sự
giúp đỡ của người Mục tử” (KK). Chúng ta cần phải học nghỉ ngơi trong vòng tay
của Người Mục tử Nhân lành.
Trong năm 2016,
Năm thánh Linh mục, Đức giáo hoàng Phanxicô, khi cử hành lễ Thánh Tâm, lưu ý rằng
chúng ta phải luôn luôn “chiêm ngưỡng hai trái tim: trái tim của Chúa Chiên
Lành và trái tim của chúng ta như là những linh mục. Trái tim của Chúa Chiên
Lành không chỉ là Trái tim tỏ lòng thương xót, nhưng chính là lòng thương
xót... Ở đó tôi biết là tôi được chào đón và thấu hiểu như chính tôi; ở đó, với
tất cả những tội lỗi và giới hạn của mình, tôi biết chắc chắn rằng tôi đã được
chọn lựa và yêu mến. Suy ngắm trái tim đó, tôi làm mới lại mối tình đầu của tôi;
nhớ lại lúc mà Chúa chạm vào tâm hồn tôi và gọi tôi đi theo Ngài, nhớ lại niềm
vui khi thả lưới cuộc đời của chúng ta trên biển của Lời Chúa” (WW). “Đừng bao
giờ quên mối tình đầu của mình. Đừng bao giờ!” (GG)
Chắc chắn, với
linh mục, mối tương quan của chúng ta với Chúa Kitô được liên kết mật thiết
trong bí tích Thánh Thể. “Thông qua thừa tác vụ của anh em, hy tế thiêng liêng
của các tín hữu được nên hoàn hảo vì được kết hợp với hy tế của Chúa Kitô, hy tế
mà qua bàn tay của anh em nhân danh toàn thể Hội Thánh, được dâng một cách
không đổ máu trên bàn thờ trong việc cử hành các mầu nhiệm thánh. Do đó, khi
anh em cử hành thánh lễ, hãy hiểu những gì anh em làm. Đừng cử hành một cách vội
vàng! Hãy noi theo điều anh em cử hành - đó không phải là một nghi thức nhân tạo,
một lễ nghi nhân tạo - để khi tham dự vào mầu nhiệm tử nạn và phục sinh của
Chúa Kitô, anh em có thể mang lấy sự chết của Chúa Kitô nơi các chi thể của
mình và bước đi cùng Người trong đời sống mới” (LL).
Là linh mục,
chúng ta “không thể sống mà không có một mối quan hệ sống động, cá nhân, xác thực
và vững chắc với Chúa Kitô... [một] linh mục không được nuôi dưỡng hằng ngày bằng
Lương thực Thần linh sẽ trở thành một công chức... Cầu nguyện hằng ngày, siêng
năng lãnh nhận các bí tích, đặc biệt là bí tích Thánh thể và Hòa giải, tiếp xúc
hằng ngày với Lời Chúa và nền linh đạo được chuyển thành đức ái sống động - đây
là những dưỡng chất quan trọng đối với mỗi người chúng ta. Hãy biết rõ là tách
rời Ngài, chúng ta không làm gì được (x. Ga 15, 5)” (HH).
II. NHƯ MỘT MỤC TỬ NHÂN LÀNH, HÃY GẦN GŨI VỚI DÂN
CHÚNG
Đức giáo hoàng
Phanxicô đã nêu rõ: “Dân chúng yêu linh mục của mình; họ muốn và họ cần mục tử
của họ! Các tín hữu không bao giờ để linh mục ở không, trừ khi linh mục trốn
trong các văn phòng, hoặc đi chơi ngồi trong xe hơi với kính râm. Có một sự mệt
mỏi tốt và lành mạnh. Đó là sự kiệt sức của linh mục mang mùi của chiên, nhưng
cũng mỉm cười với nụ cười của một người cha vui mừng với con cháu của mình... Nếu
Chúa Giêsu đang chăn dắt chiên ở giữa chúng ta, chúng ta không thể là những mục
tử cau có, rầu rĩ, hay thậm chí tệ hơn, chán chường. Mùi của chiên và nụ cười của
một người cha” (KK).
“Niềm vui của
Chúa Giêsu, Mục tử Nhân lành, không phải là niềm vui cho riêng mình, nhưng là
niềm vui cho người khác và với người khác, niềm vui thực sự của tình yêu. Đây
cũng là niềm vui của linh mục. Linh mục được biến đổi bởi lòng thương xót mà
ngài tự do ban tặng... Anh em linh mục thân mến, trong cử hành Thánh Thể mỗi
ngày, chúng ta tái khám phá căn tính của chúng ta như những mục tử. Trong mỗi
thánh lễ, ước gì chúng ta thực sự lấy những lời của Chúa Kitô làm lời của mình:
“Đây là mình Thầy, sẽ bị nộp vì các con”. Đây là ý nghĩa của cuộc sống chúng
ta; với những lời này, một cách thực tế, chúng ta hằng ngày có thể làm mới lại
những lời hứa chúng ta đã thốt lên khi được phong chức linh mục. Tôi cảm ơn tất
cả anh em vì đã thưa ‘Vâng'!”(WW).
Nói về “linh mục-mục
tử trong giáo xứ của mình hoặc trong các nhiệm vụ được giao phó”, Đức Phanxicô
ghi nhận rằng nhiệm vụ này “mang lại cho linh mục niềm vui bất cứ khi nào linh
mục trung thành với sứ vụ, bất cứ khi nào linh mục làm những gì ngài phải làm
và từ bỏ tất cả những gì ngài phải từ bỏ, miễn là ngài đứng vững giữa đàn chiên
mà Thiên Chúa đã trao phó cho ngài: Hãy chăm sóc chiên của Thầy (x. Ga 21,
16-17)... Những ai được gọi nên biết rằng niềm vui đích thực và trọn vẹn đang
có mặt trong thế giới này: đó là niềm vui được “nắm lấy” từ những người chúng
ta yêu thương, rồi được trao lại cho họ như là những người phân phát ân sủng và
lời khuyên của Chúa Giêsu, Vị Mục tử Nhân lành, với lòng thương cảm thẳm sâu
dành cho những người bé mọn và bị ruồng rẫy trên trái đất này, mệt mỏi và bị áp
bức như chiên không có người chăn. Người muốn liên kết nhiều người khác nữa vào
trong sứ vụ của Người, để nơi con người của các linh mục, chính Chúa ở lại với
chúng ta và làm việc, vì lợi ích của dân chúng” (EE). “Hãy luôn giữ trong tâm
trí hình ảnh người Mục tử Nhân lành, người đã đến không phải để được phục vụ
nhưng để phục vụ; tìm kiếm và cứu người đã mất”. (RR).
Các linh mục sẽ
chia sẻ những thống khổ của người dân. “Trong cầu nguyện, chúng ta xin ơn để “cảm
nhận và cảm nếm” Tin Mừng, để Tin Mừng có thể làm cho chúng ta “nhạy cảm” hơn
trong cuộc sống... Chúng ta có thể xin ơn để cùng với Chúa Giêsu chịu đóng
đinh, cảm nếm mật đắng của tất cả những người thông phần thập giá của Người, và
ngửi mùi hôi tanh của khổ đau - trong bệnh viện dã chiến [một biểu thức yêu
thích của Đức giáo hoàng Phanxicô], trong xe lửa và tàu thuyền chen chúc với mọi
người. Hương thơm của lòng thương xót không che giấu mùi hôi thối này. Thay vào
đó, bằng cách xức dầu cho nó, nó đánh thức niềm hy vọng mới”(VV).
Với Đức giáo
hoàng Phanxicô, công việc của các linh mục không hệ tại ở “những việc làm hoàn
toàn máy móc, giống như điều hành một văn phòng, xây hội trường giáo xứ hay bày
ra một sân bóng đá cho thanh thiếu niên trong giáo xứ... Các nhiệm vụ mà Chúa
Giêsu nói đến đòi hỏi khả năng thể hiện lòng từ bi; con tim chúng ta phải được
‘đánh động' và thể hiện ra bên ngoài. Chúng ta phải vui mừng với những cặp vợ
chồng kết hôn; chúng ta phải cùng cười với những trẻ được mang tới dòng nước rửa
tội; chúng ta phải đi cùng với những cặp đôi và gia đình trẻ; chúng ta phải đau
khổ với những người được xức dầu trên giường bệnh của họ; chúng ta phải than
khóc với những người đang chôn cất người thân yêu... Đối với anh em linh mục
chúng ta, những gì xảy ra trong cuộc sống của người dân không giống như một bản
tin: chúng ta biết dân của mình, chúng ta cảm nhận những gì đang diễn ra trong
trái tim của họ. Trái tim chúng ta chia sẻ sự đau khổ của họ, cảm được ‘sự đồng
cảm', bị kiệt sức, bị vỡ thành hàng nghìn mảnh, bị đánh động và thậm chí ‘bị
ăn' bởi dân chúng” (KK).
Sứ điệp cho các
linh mục mà Đức giáo hoàng Phanxicô thường xuyên nhấn mạnh được thể hiện trong
lễ phong chức mười linh mục trong ngày Chúa nhật Chúa Chiên lành năm 2013: “Hôm
nay, nhân danh Chúa Kitô và Hội Thánh, tôi xin anh em: đừng bao giờ chán nản thực thi lòng thương xót”
(BB). Khi ngài phong chức cho mười ba linh mục vào ngày 11 tháng Năm năm 2014,
Đức Phanxicô nói: “Và giờ đây tôi muốn tạm dừng để xin anh em: vì tình yêu của
Chúa Giêsu Kitô, đừng bao giờ chán nản thực thi lòng thương xót!” (FF). Trong lễ
Dầu năm 2016, Đức Phanxicô đã ghi nhận: “Là linh mục, chúng ta vừa là những chứng
nhân vừa là những thừa tác viên của lòng thương xót của Chúa Cha, lòng thương
xót ngày càng phong phú; chúng ta có nhiệm vụ đáng làm và đầy an ủi là nhập thể
lòng thương xót, như Chúa Giêsu đã làm” (QQ). Tông sắc Năm Thánh ngoại thường
Lòng Thương Xót của Đức Phanxicô năm 2015, Dung
mạo của lòng thương xót, tràn ngập những suy tư và cảm nhận về lòng thương
xót của Thiên Chúa. Trong Niềm Vui của
Tin Mừng, Đức Phanxicô trích dẫn thánh Tôma Aquinô, khẳng định rằng “lòng
thương xót là nhân đức lớn nhất của tất cả các nhân đức” và “vì bản tính của
Thiên Chúa là có lòng thương xót” (EG 37).
III. TÌM SỐNG MỘT LỐI SỐNG GIẢN DỊ; LUÔN SẴN SÀNG
Mặc dù các linh mục
triều không khấn khó nghèo như các linh mục dòng, tất cả các linh mục cần tự sống
và thực hành một lối sống đơn giản. Trong những năm sống ở Buenos Aires, Đức hồng
y Bergoglio sống trong một căn hộ nhỏ chứ không phải trong dinh thự dành cho
giám mục; ngài dùng phương tiện giao thông công cộng chứ không dùng ôtô với tài
xế riêng; ngài tự nấu ăn. Khi là một vị giáo hoàng mới được tuyển chọn, ngài
cùng với các vị hồng y khác đi xe buýt công cộng, thanh toán tiền phòng khách sạn,
và hiện tại ngài tiếp tục di chuyển bằng một chiếc xe rất giản dị và sống ở
Casa Santa Marta. Đức giáo hoàng Phanxicô biết nhu cầu vật chất cần thiết cho
việc tông đồ; tuy nhiên ngài cũng đòi hỏi các linh mục xem xét lại sự chân
thành và tính xác thật của mình trong việc sống tinh thần nghèo khó. Đức
Phanxicô thừa nhận rằng: “Trong Hội Thánh, chúng ta đã và vẫn đang có những tội
lỗi và sa ngã... Dân Chúa tha thứ cho các linh mục chúng ta nhiều lỗi lầm, ngoại
trừ tội dính bén đến tiền bạc. Vấn đề ở đây không chỉ là về chính tiền bạc,
nhưng là vì tiền bạc làm cho chúng ta mất đi kho tàng của lòng thương xót. Dân
Chúa có thể lần ra được tội nào là tội trầm trọng đối với linh mục, những tội
giết chết thừa tác vụ của linh mục... Thương xót không chỉ là ‘một lối sống',
nhưng là ‘lối sống duy nhất'. Không có con đường nào khác để trở thành một linh
mục” (VV).
Làm thế nào để
các linh mục trở thành “người đầy tớ tốt và trung thành” (x. Mt 25,21)? Đối với
Đức Phanxicô, “chúng ta được đòi hỏi phải sẵn
sàng... Mỗi buổi sáng người linh mục tập luyện cho mình có sự rộng lượng với
cuộc đời mình và tập nhận ra rằng những giờ sống còn lại trong ngày không phải
là của mình, nhưng là dành cho những người khác... Người phục vụ thì mở lòng
trước những ngạc nhiên, những ngạc nhiên không ngừng của Thiên Chúa... Người phục
vụ không bận tâm về thời gian biểu. Tôi rất bực bội khi thấy một thời gian biểu
trong một giáo xứ nọ: ‘Việc từ giờ này qua giờ khác'. Và sau đó thì sao? Không
có cánh cửa mở, không có linh mục, không có phó tế, không có giáo dân để đón nhận
người khác. Thế này thì không tốt... Nếu anh em muốn chứng tỏ rằng anh em sẵn
sàng cho người khác, thừa tác vụ của anh em không phải là tự phục vụ cho bản
thân, nhưng là sự đơm hoa kết trái của Tin Mừng” (SS).
Đức Phanxicô đã
thường nói về nhân đức sẵn sàng trong đời linh mục. Trong lễ Dầu năm 2014, ngài
lưu ý: “Tính sẵn sàng của các linh mục làm cho Hội Thánh trở thành một ngôi nhà
mở rộng cửa, nơi nương tựa cho các tội nhân, là nơi cư ngụ cho những người sống
ở đường phố, là nơi chăm sóc yêu thương cho bệnh nhân, là lều trại cho những
người trẻ, là lớp học giáo lý cho các trẻ em chuẩn bị lãnh nhận bí tích Rước lễ
lần đầu... Nơi nào dân Chúa có nhu cầu hoặc mong muốn, nơi đó có linh mục, là
người biết lắng nghe (ob-audire) và cảm
nhận mệnh lệnh yêu thương từ Đức Kitô, Đấng đã sai linh mục đến để xoa dịu, đáp
ứng nhu cầu đó với lòng thương xót hoặc đến để khuyến khích những mong muốn tốt
đẹp với đức mến dồi dào trong họ” (EE).
Sự kiên quyết sống
một lối sống đơn giản của Đức giáo hoàng Phanxicô được thể hiện cụ thể trong việc
chọn tên của ngài: Phanxicô. Nhiều chi tiết về “việc chọn tên” của ngài đã được
biết đến vì chính Đức Phanxicô đã kể ra. Khi ngài được chọn cách rõ ràng, bạn của
ngài, Đức hồng y Claudio Hummes, người ngồi cạnh ngài, đã ôm chầm lấy ngài, hôn
ngài, và nói: “Đừng quên người nghèo!” Đức Phanxicô đã nói: “Những từ này đã hiện
lên trong tôi: người nghèo, người nghèo. Rồi ngay lập tức, nghĩ đến người
nghèo, tôi nghĩ đến thánh Phanxicô thành Assisi. Đối với tôi, thánh nhân là con
người của sự khó nghèo”. Đức Phanxicô còn thêm: “Tôi mong muốn một Giáo Hội
nghèo và vì người nghèo”. Trong Tông huấn Evangelii
Gaudium, Đức Phanxicô đã có một phần chính yếu nói về việc bao gồm người
nghèo trong Hội Thánh và trong xã hội (EG 186-216); ngài mạnh mẽ lặp lại mong
muốn của mình: “Tôi muốn một Giáo Hội nghèo và vì người nghèo” (EG 198).
IV. CHẤP NHẬN NHỮNG GIỚI HẠN CÁ NHÂN; TRỞ THÀNH MẪU
GƯƠNG CỦA SỰ TOÀN VẸN
Thư gửi tín hữu
Do Thái (Dt 5,1) nói rằng “mỗi thượng tế đã được tuyển chọn từ muôn người và
làm đại diện trước mặt Thiên Chúa”. Presbyterorum
Ordinis, Sắc lệnh về chức vụ và đời sống các linh mục của Công đồng
Vaticanô II, khẳng định: “Các linh mục, được tuyển chọn từ loài người và được đặt
ra cho loài người để lo việc Thiên Chúa hầu dâng những hiến vật và hy tế đền tội,
các linh mục sống với người khác như với anh em (PO 3)”. Linh mục thực sự là “ở
trong thế giới này nhưng không thuộc về thế giới này”; họ cần ý thức sâu sắc cả
hai “sự hư không”/“tính con người” cũng như là “sự vĩ đại”/“phẩm giá”. Ngay cả
trong sự yếu đuối của họ, các linh mục vẫn biểu lộ quyền năng phi thường và sự
hiện diện của Chúa. Tác động đa dạng của ơn Chúa trong những giới hạn của con
người quả thật là một huyền nhiệm sâu xa. Hàng linh mục chúng ta phải để cho
mình được dìm trong lòng thương xót Chúa - và để mình vỡ òa niềm vui tri ân.
Đức Phanxicô nói:
“Đó là cách mà chúng ta [những linh mục] phải nhìn vào chính mình: cân bằng giữa
sự xấu hổ tột bực và phẩm giá siêu phàm của chúng ta. Dơ nhớp, ô uế, bần tiện
và ích kỷ, nhưng đồng thời với bàn chân được cọ rửa, được gọi, và được chọn để
phân phát lương thực phong phú của Chúa, được chúc phúc, được yêu, và được quan
tâm bởi muôn người. Chỉ có lòng thương xót mới làm cho tình cảnh này có thể chịu
đựng được. Không có điều này, thì hoặc là chúng ta tin vào sự công chính của
chúng ta như những người Pharisêu, hoặc là chúng ta co rút lại như những người
cảm thấy không xứng đáng... Điều quan trọng là mỗi người chúng ta cảm thấy được
sự nghịch lý đầy hoa trái đó đã được sản sinh từ lòng nhân từ của Chúa: chúng
ta vừa là tội nhân được tha thứ, vừa là tội nhân được phục hồi lại phẩm giá”
(TT). “Lòng từ bi của Thiên Chúa... thì luôn luôn “lớn hơn” ý thức tội lỗi của
chúng ta” (UU).
Đức giáo hoàng
Phanxicô khẳng định rằng “Vì vậy, một linh mục tốt thì trước tiên phải là một
người trong thân phận con người của mình, con người đó biết lịch sử đời mình với
những phong phú và những thương tích của nó, là người đã học làm hòa với nó, đã
đạt được sự thanh thản thiết yếu thích hợp để trở thành môn đệ Chúa Kitô... Bản
chất con người chúng ta là một ‘bình sành' trong đó chứa đựng kho báu của Chúa,
một bình sành mà chúng ta cần phải chăm sóc, để có thể truyền đạt thật tốt nội
dung quý giá bên trong... Linh mục là ‘thượng tế', vừa là người thân cận với
Thiên Chúa vừa gần gũi với con người; linh mục là người ‘tôi tớ', người rửa
chân, người biết làm cho mình trở nên thân cận với những người yếu đuối nhất;
linh mục phải là một “chủ chăn tốt”, người luôn chăm sóc quan tâm đến đoàn
chiên của mình” (OO).
Đức giáo hoàng
Phanxicô đã đưa ra những lời lẽ rất nặng về nhiều lỗi lầm và thiếu sót khác của
hàng linh mục, đó là: bệnh nghề nghiệp hóa thừa tác vụ linh mục/ chủ nghĩa độc
đoán/ [và] “chủ nghĩa giáo điều đã bóp méo tôn giáo” (DD). Có tội “thần kinh
phân liệt... bệnh của những người sống hai mặt, hậu quả của sự giả hình xoàng
xĩnh (HH). Nhiều lần, Đức giáo hoàng Phanxicô đã nói với các linh mục là cần phải
khoan dung hơn đối với những người Kitô giáo ly dị và cần đón nhận những cặp
tái hôn và con cái của họ vào Hội thánh (NN). “Hội thánh được kêu gọi để trở
thành Nhà Cha, luôn luôn mở rộng cửa... Mọi người có thể tham dự một cách nào
đó vào đời sống Hội thánh; mọi người có thể là thành phần của cộng đoàn, và các
cửa của các bí tích [Vd. Bí tích Rửa tội, bí tích Thánh thể] cũng không được
đóng vì bất cứ lý do nào” (EG 47).
Vì thế, các linh
mục cần phải không ngừng chất vấn lại lương tâm và lối sống của mình. Đức giáo
hoàng Phanxicô đưa ra một bản xét mình vắn tắt cho các linh mục: “Con tim của
tôi ở đâu? Giữa muôn người, cầu nguyện với và cho mọi người, hòa với niềm vui
và nỗi buồn của họ, hay hơn nữa, hòa cùng mọi việc diễn ra trên thế giới này,
những vấn đề thế tục, không gian riêng của tôi?” (OO).
Một lần khác, Đức
Phanxicô gợi ý “Thánh thi về đức ái” trong thư thứ nhất của thánh Phaolô gửi
cho các tín hữu Côrintô như là một bản chỉ dẫn cho việc xét mình (JJ). Thêm vào
đó, liệu hàng linh mục chúng ta có nhận ra rằng chúng ta là “những đầy tớ vô dụng”
(Lc 17,10), “những người mà Thiên Chúa đã chúc phúc với những hoa trái của ơn
thiêng, đồng bàn, và thết đãi bí tích Thánh thể”? (VV). Linh mục - toàn thể
Giáo Hội - không bao giờ tự đề cao mình! (VV) .
V. BIỂU LỘ NIỀM VUI TRONG SỨ VỤ; NHẬN VÀ TRAO BAN
NIỀM CẢM MẾN
Chủ đề nổi bật
trong bài suy niệm của Đức giáo hoàng Phanxicô trong lễ Dầu thứ hai (2014) là
“niềm vui của chức linh mục”. “Chúng ta tưởng niệm ngày hạnh phúc Chúa lập chức
linh mục và ngày chúng ta chịu chức linh mục. Chúa đã xức dầu cho chúng ta
trong Đức Kitô bằng dầu hoan lạc và việc xức dầu này mời gọi chúng ta hãy đón lấy
và quý trọng hồng ân cao cả này: niềm vui, niềm hoan lạc trở thành một linh mục.
Niềm vui của chức linh mục là một thiện ích quý giá không những cho đương sự
nhưng còn cho toàn thể tín hữu của Thiên Chúa: từ những tín hữu đó mà linh mục
được kêu gọi để được xức dầu và rồi, đến lượt linh mục được sai đi để xức dầu
cho dân” (EE).
“Niềm vui linh mục
có nguồn mạch từ tình thương của Chúa Cha và Thiên Chúa muốn rằng niềm vui của
tình thương này ở “trong chúng ta” và “được viên mãn” (Ga 15,11)... Có ba đặc
tính đầy ý nghĩa trong niềm vui linh mục của chúng ta: đó là niềm vui xức dầu
cho chúng ta..., đó là một niềm vui không bị hư nát và là một niềm vui sứ vụ,
lan tỏa và cuốn hút... Một niềm vui xức dầu chúng ta. Nghĩa là, sự xức dầu ấy thấu
nhập tận thâm tâm chúng ta, uốn nắn con tim chúng ta và củng cố bằng bí tích...
chúng ta được xức dầu đến tận xương tủy, và niềm vui của chúng ta, trào ra từ
thẳm sâu tâm hồn, chính là âm vang của sự xức dầu ấy. Một niềm vui không thể bị
hư hỏng... mà Thiên Chúa đã hứa là không ai có thể tước đoạt (Ga 16,22)... Một
niềm vui sứ vụ: niềm vui của linh mục được đặt trong quan hệ thân mật với sự
thánh thiện của Thiên Chúa và của các tín hữu: ... để rửa tội và thêm sức họ, để
săn sóc và thánh hiến họ, để chúc lành, để an ủi và loan báo Tin Mừng cho họ
(EE).
Hồi tưởng lại tài
liệu chính yếu thứ nhất do Đức giáo hoàng Phanxicô ban hành là Evangelii Gaudium (Niềm vui của Tin mừng). Đối với Đức Phanxicô, “Niềm vui của Tin mừng
đổ đầy trái tim và cuộc sống của tất cả những ai gặp Chúa Giêsu... Với Đức
Kitô, niềm vui luôn được tái sinh... tôi muốn khích lệ các Kitô hữu đi vào một
chương mới của công cuộc loan báo Tin Mừng ngập tràn niềm vui này (EG 1).
Ẩn chứa trong
Tông huấn đầu tiên này của Đức Phanxicô là nhiều diễn đạt sáng tạo để nhắc nhở
chúng ta về trọng tâm của niềm vui trong việc tông đồ. “Có những Kitô hữu sống
đời mình như chỉ có Mùa Chay mà không có Mùa Phục Sinh” (EG 6). “Một nhà loan
báo Tin Mừng không bao giờ được mang bộ mặt của một người vừa đưa đám về (EG
10). Chúng ta phải đề phòng “khoa tâm lý nấm mồ” “biến các Kitô hữu thành những
xác ướp trong viện bảo tàng” (EG 83). Đức Phanxicô trích dẫn lời của Thánh
Gioan XXIII, khẳng định rằng: “Chúng ta thấy không thể đồng tình với những nhà
tiên tri của thảm họa, những người luôn tiên báo có thảm họa, như thể ngày tận
thế đã tới gần” (EG 84). Các tín hữu Kitô giáo phải tránh bất cứ điều gì “biến
chúng ta thành những kẻ bi quan, bất mãn và “vỡ mộng” (EG 85). “Chúng ta đừng để
cho mình bị cướp mất niềm vui loan báo Tin Mừng!” (EG 83).
Đối với Đức
Phanxicô, một linh mục phải là một tông đồ thực thụ, “một người thông truyền niềm
vui tại bất kỳ nơi nào anh ta đến. Một con tim đầy Thiên Chúa là một con tim hạnh
phúc, chiếu tỏa và làm lan rộng niềm vui, nó được minh chứng ngay lập tức!
Chúng ta đừng đánh mất tinh thần vui tươi, óc hài hước, thậm chí tự cười mình,
những điều đó làm cho người ta dễ mến ngay cả trong những hoàn cảnh khó khăn. Một
chút hài hước thật là tốt dường nào. Chúng ta sẽ làm tốt nếu thường đọc kinh của
thánh Thomas More. Tôi vẫn đọc kinh đó hằng ngày” (HH). Câu cuối trong kinh
nguyện của More là: “Lạy Chúa, xin cho con một cảm thức hài hước tốt lành. Xin
ban cho con ơn hiểu biết những trò đùa, để khám phá trong cuộc sống một chút niềm
vui, và có thể chia sẻ niềm vui với người khác (HH).
Đức giáo hoàng
Phanxicô đã nài xin Chúa tha thiết ban cho các linh mục món quà của niềm vui.
“Trong ngày thứ Năm linh mục này, tôi xin Chúa Giêsu gìn giữ niềm vui bừng sáng
trong đôi mắt của các tân linh mục... Lạy Chúa, xin giữ gìn nơi các linh mục trẻ
của Chúa niềm vui được khởi hành, niềm vui làm mọi sự như thể là lần đầu tiên,
niềm vui của tiêu hao cuộc sống vì Chúa... Tôi cầu xin Chúa củng cố niềm vui
linh mục nơi những người đã thi hành sứ vụ này trong nhiều năm trời..., những
người đang vác gánh nặng của sứ vụ... tôi xin Chúa Giêsu làm cho niềm vui của
các linh mục cao niên, lành mạnh hay yếu đau, được chiếu tỏa rạng ngời. Đó là
niềm vui của Thập giá... Xin cho họ cảm nhận niềm vui của người trao lại ngọn
đuốc, niềm vui được thấy những thế hệ mới của các đứa con tinh thần của họ, và
cảm nghiệm những lời hứa, trong nụ cười và sự bình an, trong niềm hy vọng sẽ
không làm chúng ta thất vọng”.
VI. TẬN TÂM CHO VIỆC GIẢNG DẠY TỐT
Nhiều người Công
giáo đã ngạc nhiên khi Đức giáo hoàng Phanxicô dành hai mươi lăm đoạn trong
Tông huấn Niềm vui Tin Mừng để nói về
bài giảng và việc giảng lễ (EG 135- 159). Ngài dùng nhiều câu thẳng thắn thậm
chí bộc trực để nói về các linh mục và về việc giảng lễ. “Bài giảng là viên đá
thử để đánh giá sự gần gũi và khả năng truyền thông của người mục tử với dân
chúng” (135). “Bài giảng không thể mang một hình thức giải trí... bài giảng phải
ngắn và tránh mang dáng dấp của một bài diễn văn hoặc thuyết trình... Nếu bài
giảng quá dài, nó sẽ ảnh hưởng đến hai yếu tố đặc trưng của cử hành phụng vụ: sự
cân bằng và nhịp điệu” (138). “Chuẩn bị bài giảng là một nhiệm vụ rất quan trọng
nên phải dành nhiều thì giờ để học hỏi, cầu nguyện, suy niệm và sáng tạo mục vụ...
Một người giảng thuyết không chuẩn bị thì không “có thần khí”; họ là người bất
lương và vô trách nhiệm đối với các ân huệ họ đã nhận (145).
Bài giảng “không
được sử dụng để sửa sai các lỗi lầm..., không được sử dụng để dạy học thuyết...,
không được sử dụng nó để giải thích những tư tưởng thần học khác nhau..., chúng
ta đừng nên sử dụng để nói về những tin tức mới nhất” (147). “Điều quan trọng
là nhà thuyết giảng phải chắc chắn rằng Thiên Chúa yêu thương họ, rằng Đức
Giêsu Kitô đã cứu họ, và rằng tình yêu của Ngài luôn luôn có tiếng nói cuối cùng”
(151). “Vì thế việc soạn bài giảng trở thành một việc luyện tập phán đoán theo
Tin Mừng” [liên hệ niềm tin sâu sắc vào cuộc sống hiện tại] (154). “Một đặc
tính khác của một bài giảng hay đó là ngôn ngữ tích cực... Giảng tích cực luôn
luôn đem lại hy vọng, vạch ra tương lai, không để chúng ta mắc kẹt trong tiêu cực”
(159).
Khi trò chuyện với
những tân linh mục, Đức Phanxicô nói: “Mong rằng bài giảng của anh em không buồn
tẻ; mong cho các bài giảng của anh em chạm được đến trái tim của dân chúng vì
nó đến từ trái tim của anh em, vì những gì anh em giảng cho họ là những gì anh
em đang mang trong tim. Theo cách này, Lời Chúa được rao truyền, và như thế việc
giảng dạy của anh em sẽ là niềm vui và nâng đỡ cho dân Chúa; hương thơm đời sống
của anh em sẽ là bằng chứng” (LL). Có người sẵn sàng nhớ lại ở đây châm ngôn của
Đức hồng y Gioan Henry Newman: Cor ad cor
loquitur [Trái tim nói với trái tim].
“Người ta nhận ra
vị tư tế tốt lành qua cách thức dân của vị ấy được xức dầu. Khi các tín hữu
chúng ta được xức bằng dầu hoan lạc thì ta nhận thấy ngay điều đó, chẳng hạn
khi họ giã từ thánh lễ với khuôn mặt của người đã nhận tin vui. Các tín hữu của
chúng ta đã vui mừng đón nhận Phúc Âm được rao giảng với việc ‘xức dầu', họ hài
lòng khi Tin mừng mà chúng ta loan báo chạm vào đời sống hằng ngày của họ...,
khi nó soi sáng cho những hoàn cảnh tối tăm cùng cực... Dân chúng cảm ơn chúng
ta vì họ cảm thấy chúng ta đã cầu nguyện với những thực tại của đời sống hằng
ngày, những cơ cực và vui mừng, những lo âu và hy vọng của họ” (AA).
VII. CẨN THẬN GIÁM SÁT BẤT CỨ “VỊ TRÍ HOẶC QUYỀN
LỰC GIÁO SĨ” NÀO ANH EM SỞ HỮU
Có lẽ điểm chú
tâm nhất của Đức giáo hoàng Phanxicô để cảnh báo các linh mục và giám mục về một
số cạm bẫy trong sứ vụ và đời sống của họ được tìm thấy trong sứ điệp Giáng
sinh năm 2014 cho giáo triều Rôma (HH). Sứ điệp đã được chế tác như một bản
“xét mình,” theo những thực hành của các giáo phụ sa mạc, các ngài đã chuẩn bị
“những danh sách” như sự chuẩn bị cho việc lãnh nhận bí tích Hòa Giải. Đức
Phanxicô lưu ý rằng việc chữa lành được thực hiện khi chúng ta ý thức về bệnh tật
của mình, cùng với những quyết định cá nhân và cộng đoàn để áp dụng các phương
dược thích hợp cách kiên nhẫn và kiên trì.
Đức Phanxicô đã đề
cập đến một số “các bệnh tật và cám dỗ làm suy yếu việc phục vụ của chúng ta đối
với Thiên Chúa” có thể xảy ra, những điều mà có thể làm suy yếu “mối quan hệ
quan trọng, cá vị, xác thực và vững chắc với Đức Kitô” của chúng ta. Việc đề cập
đến một số vấn đề cụ thể nhằm trình bày rõ ràng và có thể thúc đẩy “một mối
liên hệ sống động với Thiên Chúa, và mối liên hệ đó nuôi dưỡng, củng cố sự hiệp
thông của chúng ta với những người khác”. “Bản liệt kê các thứ bệnh” bao gồm mười
lăm mục (HH).
Đầu tiên, đó là
(1) “Bệnh suy nghĩ chúng ta là ‘bất tử', ‘miễn nhiễm' hoặc hoàn toàn ‘không thể
thiếu được'; ... nó là bệnh của những người tự cho rằng mình là lãnh chúa và thầy
dạy và nghĩ mình ở trên những người khác chứ không phải để phục vụ họ. Nó là kết
quả của căn bệnh quyền lực, phát xuất từ mặc cảm tự tôn”. (2) “Bệnh khác là
‘làm việc thái quá của Mátta', quá bận rộn... Chúa Giêsu bảo các môn đệ ‘nghỉ
ngơi một chút'”. (3) “Và cũng có bệnh về “sự cứng cỏi - hóa đá”, về tinh thần
và tâm linh; có mặt nơi những người có một trái tim bằng đá..., những người mất
‘những tâm tình của Chúa Giêsu'”. (4) “Bệnh kế hoạch thái quá và duy hiệu
năng”. (5) “Bệnh kém hợp tác [đang nổi lên] một khi các thành viên mất hiệp
thông với nhau”.
Đức giáo hoàng
Phanxicô liệt kê những bệnh có thể xảy ra khác nữa, như là (6) “bệnh suy thoái
não bộ tâm linh [căn bệnh mà] quên đi ‘lịch sử cứu độ', lịch sử quá khứ của
chúng ta với Chúa và ‘mối tình đầu' của chúng ta... Chúng ta nhìn thấy thứ bệnh
này nơi những người đã đánh mất ký ức về cuộc gặp gỡ của họ với Chúa”. (7) “Bệnh
của cạnh tranh và háo danh ... [bao gồm] tước hiệu của danh dự”. (8) “Bệnh tâm
thần phân liệt hiện sinh; đây là bệnh của những người sống một cuộc sống hai mặt”.
(9) “Bệnh ngồi lê đôi mách, lẩm bẩm và nói hành... Thưa anh em, chúng ta phải cảnh
giác chống lại chủ nghĩa khủng bố của tin đồn!” (10) “Bệnh thần thánh hóa giới
lãnh đạo... với hy vọng được họ ủng hộ”. Những người lãnh đạo Giáo Hội như vậy
là nạn nhân của chủ nghĩa nghề nghiệp và chủ nghĩa cơ hội... Họ chỉ nghĩ về những
gì họ có thể nhận được chứ không phải những gì họ nên cho đi”.
Năm bệnh cuối
cùng được Đức giáo hoàng Phanxicô liệt kê ra bắt đầu với (11) “Bệnh dửng dưng với
người khác. Đây là nơi mà mỗi cá nhân chỉ nghĩ đến bản thân mình và mất đi sự chân
thành và ấm áp của các mối liên hệ nhân sinh”. (12) “Bệnh của một khuôn mặt đưa
đám. Những người cau có và khắc khổ nghĩ cách nghiêm trọng rằng, chúng ta phải
tạo nên một khuôn mặt u sầu và nghiêm trọng; và đối xử người khác... với sự
nghiêm khắc, cộc cằn và cứng cỏi”. (13) “Bệnh tích trữ [khi một người] cố gắng
để lấp đầy khoảng trống hiện hữu trong trái tim bằng cách tích lũy của cải vật
chất, không phải vì nhu cầu mà chỉ để cảm thấy an toàn”. (14) “Bệnh của những
nhóm khép kín, ở đó thuộc về một phe nhóm trở nên mạnh mẽ hơn, quan trọng hơn
là thuộc về Hội Thánh, và trong một số hoàn cảnh, mạnh hơn là thuộc về chính
Chúa Kitô”. Cuối cùng, (15) “các bệnh tìm kiếm lợi lộc trần tục và phô trương
[mà bắt đầu khi] một tông đồ biến sự phục vụ của mình thành quyền lực, và biến
quyền lực thành hàng hoá nhằm đạt được lợi lộc của thế gian hay quyền lực lớn
hơn”.
“Thưa anh em, các
bệnh và những cám dỗ này là một mối nguy hiểm tự nhiên... Chúng ta cần phải rõ
ràng rằng chỉ có Chúa Thánh Thần, Đấng có thể chữa lành tất cả những yếu đuối của
chúng ta... Chúng ta hãy cầu xin Đức Trinh Nữ Maria... làm cho chúng ta yêu mến
Hội Thánh như Chúa Kitô, Con của Mẹ và Chúa của chúng ta, yêu thương Mẹ, để có
can đảm thừa nhận rằng chúng ta là những tội nhân cần lòng thương xót của
Chúa... Và xin đừng quên cầu nguyện cho tôi! Chân thành cảm ơn!” (HH).
Cần lưu ý rằng nếu
vào dịp Giáng sinh năm 2014 Đức Phanxicô đã đưa ra một danh mục của mười lăm “bệnh
giáo triều” (mà cũng có thể lây nhiễm sang các linh mục); thì sau đó trong sứ
điệp Giáng sinh năm 2015, ngài đã nói về “những phương thuốc kháng sinh”. Ngài
đã sử dụng mười hai chữ cái của từ MISERICORDIA để kết nối với cốt lõi của sứ
điệp tích cực của mình, bắt chước những gì Matteo Ricci đã làm trong sáng kiến
truyền giáo của mình ở Trung Quốc. Đức Phanxicô tóm kết suy tư của ngài với lời
cầu nguyện được cho là của chân phước Oscar Arnulfo Romero, lưu ý rằng các linh
mục là “những đầy tớ, không phải là những Đấng Cứu Thế” (PP).
VIII. CHÚ TRỌNG “LÒNG ĐẠO ĐỨC BÌNH DÂN” CỦA CÁC
TÍN HỮU
Trong Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng (Evangelii Gaudium), Đức giáo hoàng Phanxicô dành một số phần để nói
về “sức mạnh truyền giáo của lòng đạo đức bình dân” (EG 122- 126). Một vài
trích đoạn ngắn gọn để nắm bắt tư tưởng của Đức Thánh Cha.
“Lòng đạo đức
bình dân cho phép chúng ta thấy rằng đức tin, sau khi được lãnh nhận, sẽ hội nhập
vào một nền văn hóa và liên tục được truyền lại. Từng có thời bị hạ thấp, lòng
đạo đức bình dân đã được đánh giá cao trở lại trong những thập niên sau Công Đồng.
Trong Tông huấn Loan báo Tin Mừng (Evangelii
Nuntiandi), Đức giáo hoàng Phaolô VI đã tạo một động lực quyết định trong
lĩnh vực này. Trong Tông huấn, ngài đã tuyên bố rằng lòng đạo đức bình dân ‘biểu
lộ một nỗi khao khát Thiên Chúa mà chỉ có người nghèo và người đơn sơ có thể biết',
và rằng ‘lòng đạo đức bình dân làm cho con người có thể quảng đại và hy sinh thậm
chí đến mức anh hùng, khi cần làm chứng cho niềm tin'. Gần với thời đại của
chúng ta hơn, Đức Bênêđictô XVI, khi nói về châu Mỹ La tinh, đã chỉ ra rằng
lòng đạo đức bình dân là một kho tàng quý giá của Giáo Hội Công giáo', nơi đó,
‘chúng ta thấy hồn của các dân tộc của châu Mỹ La tinh'” (EG 123).
“Văn kiện
Aparecida [văn kiện mà Đức giáo hoàng Phanxicô đã góp phần to lớn] mô tả những
sự phong phú mà Chúa Thánh Thần tuôn đổ vào lòng đạo đức bình dân qua sáng kiến
tự do của Ngài. Tại châu lục thân yêu đó, nơi nhiều Kitô hữu diễn tả niềm tin
qua lòng đạo đức bình dân, các giám mục cũng gọi đó là ‘linh đạo bình dân' hay
‘khoa thần bí của dân chúng'. Nó đúng là ‘một linh đạo nhập thể trong văn hóa của
người thấp hèn'... Nó là một cách sống đức tin hợp pháp, một cách cảm nhận mình
là thành phần của Giáo Hội và một cách truyền giáo'; nó mang theo mình đặc sủng
để làm người truyền giáo, nó vượt ra khỏi bản thân mình để lên đường hành
hương” (EG 124).
Lòng đạo đức bình
dân, hiểu như hoa trái của hội nhập Tin Mừng trong văn hóa, là một nguồn lực
phúc âm hóa tích cực mà chúng ta không được xem nhẹ; nếu không, chúng ta sẽ
không thể nhận ra công trình của Chúa Thánh Thần. Thay vào đó, chúng ta được mời
gọi để cổ vũ và tăng cường lòng đạo đức bình dân, nhằm đi sâu vào tiến trình vô
tận của hội nhập văn hóa. Các biểu hiện của lòng đạo đức bình dân dạy ta nhiều
điều; với những ai có khả năng đọc được những biểu hiện này, chúng là một locus theologicus (cơ sở thần học) đòi hỏi
sự chú ý của chúng ta, đặc biệt ở thời điểm chúng ta đang hướng tới công cuộc
tân phúc âm hóa” (EG 126).
Trước khi được bầu
làm giáo hoàng, Đức hồng y Jorge Bergoglio đã nói trong một diễn văn năm 2012 về
“thần học dân chúng,” điều mà ngài nắm giữ với lòng tự tin cao độ. Ngài đã giải
thích cảm thức bên trong của nền “thần học dân chúng” này, nhấn mạnh rằng lòng
đạo đức bình dân là phản đề của thế tục hóa lan rộng. Nền thần học này được tìm
thấy nơi văn hóa và sự sùng bái của những người bình dân, bao gồm linh đạo và cảm
thức công bằng của họ; thần học dân chúng tỏ lộ “đức tin của những người khiêm
tốn”.
Với Đức hồng y
Bergoglio, châu Mỹ La tinh có nét đặc trưng là sự nghèo khổ và Kitô giáo; Kitô
giáo được thể hiện bằng nhiều hình thức và màu sắc khác nhau của lòng đạo đức
bình dân như rước kiệu, các buổi cầu nguyện, và cầu nguyện công khai. Ngài đã
nói: “Khi chúng ta tiếp cận dân của chúng ta với cái nhìn của người mục tử nhân
lành, khi chúng ta không đến để đánh giá, nhưng để yêu, chúng ta có thể nhận ra
rằng lối văn hóa này để bày tỏ đức tin Kitô giáo vẫn còn hiện diện giữa chúng
ta, đặc biệt là ở những người nghèo”. Ngài khẳng định rằng “linh đạo bình dân
là cách ban đầu mà qua đó Chúa Thánh Thần đã hướng dẫn và tiếp tục dẫn dắt hằng
triệu người anh em của chúng ta”.
Đức hồng y
Bergoglio đã tự mình thúc đẩy các hình thức đạo đức bình dân ở Buenos Aires. Ví
dụ, ngài đã phổ biến lòng sùng kính “Đức Mẹ tháo gỡ những nút thắt”. Ngài truyền
bá hình ảnh gợi mở của La Virgen
Desatanudos, một danh hiệu xuất xứ từ Augsburg, Đức (Maria Knotenloserin]. Ngài cũng đã phổ biến hình ảnh của “Thánh
Giuse đang ngủ”. Đức hồng y Tagle của Manila đã khẳng định rằng Đức giáo hoàng
Phanxicô rất thoải mái với lòng đạo đức bình dân bởi vì lòng đạo đức bình dân
là phương thế “để tăng cường đức tin”; trong lòng đạo đức bình dân “Chúa Thánh
Thần và văn hóa của người nghèo gặp gỡ nhau”. Không nghi ngờ gì nữa, lòng đạo đức
bình dân là một nền tảng phong phú trên đó các linh mục có thể xây dựng công
tác mục vụ của họ!
IX. HÃY THỰC SỰ NHẠY CẢM VỚI NHỮNG NGƯỜI Ở CÁC
“VÙNG VEN”
VÀ “BÊN LỀ”
Từ khi bắt đầu sứ
vụ của mình như là giám mục Rôma, Đức giáo hoàng Phanxicô đã khẳng định rằng
quyền bính của một linh mục luôn luôn gắn với sứ vụ của ngài, đặc biệt là việc
chăm sóc và bảo vệ những người nghèo nhất, yếu nhất, người kém quan trọng nhất,
những người cần được cứu giúp nhất, đó là những người dễ bị lãng quên, những
người bị gạt ra bên lề, và người ở những vùng ngoại biên của xã hội. Ở
Argentina, Đức Phanxicô đã được biết đến như là “giám mục khu ổ chuột” vì thường
xuyên liên lạc với người nghèo; ngài tin rằng phục vụ như thế là cách cụ thể nhất
để phục vụ Chúa Giêsu. Với tư cách giáo hoàng, ngài đã đi đến nhà tù cho người
chưa thành niên ở Rome; ngài đã đến đảo Lampedusa ở phía nam nước Ý để được
liên đới với những người di cư, nhiều người di cư đã chết khi cố gắng đến châu
Âu.
“Là những linh mục,
chúng ta đồng hóa mình với những người bị loại trừ, những người được Thiên Chúa
cứu vớt. Chúng ta phải nhớ rằng có vô số những người nghèo, thất học, các tù
nhân, họ ở trong những tình huống như vậy bởi vì những người khác áp bức họ.
Nhưng chúng ta cũng nên nhớ rằng mỗi người chúng ta đều biết mình mù lòa như thế
nào... Chúa Giêsu đến để cứu chuộc chúng ta, để giải thoát chúng ta, để biến đổi
chúng ta từ nghèo đói và mù lòa, bị bắt giam và bị áp bức, để trở thành những
thừa tác viên của lòng thương xót và sự an ủi” (QQ).
“Là linh mục,
chúng ta là những chứng nhân và là thừa tác viên về sự phong phú ngày càng lớn
mạnh của lòng thương xót của Chúa Cha; chúng ta có nhiệm vụ đáng quý và đầy an ủi
là nhập thể lòng thương xót, như Chúa Giêsu đã làm, Đấng đã đến để ‘thi ân
giáng phúc và chữa lành' (Cv 10,38) bằng hàng ngàn cách khác nhau, để lòng
thương xót có thể chạm đến tất cả mọi người. Chúng ta có thể giúp đỡ để làm cho
lòng thương xót hội nhập vào văn hóa, để mỗi người đều có thể ôm lấy và trải
nghiệm lòng thương xót” (QQ).
Đức Phanxicô khẳng
định rằng các linh mục cần có “ánh mắt linh mục”, để có thể “nhìn thấy dân chúng
với đôi mắt của lòng thương xót. Phải học điều này từ trong chủng viện, và lòng
thương xót phải làm cho tất cả các kế hoạch và dự án mục vụ của chúng ta nên
phong phú hơn... Chúng ta phải để cho mình bị đánh động bởi hoàn cảnh sống của
người dân, nhiều khi hoàn cảnh đó là sự pha trộn giữa những hành động của họ với
những yếu đuối con người, tội lỗi và những điều kiện sống không thể vượt qua.
Chúng ta phải nên giống Chúa Giêsu, Người đã vô cùng xúc động khi nhìn thấy dân
chúng và các khó khăn của họ... Người đã chữa lành dân chúng, tha thứ cho tội lỗi
của họ, xoa dịu nỗi đau của họ, cho họ nghỉ ngơi và làm cho họ cảm nhận hơi thở
ủi an của Chúa Thánh Thần”(VV).
Nói với các giám
mục, linh mục, và tu sĩ tại nhà thờ chính tòa Manila vào năm 2015, Đức Phanxicô
nhấn mạnh những thách thức trong việc phục vụ người nghèo và thiếu thốn, “những
người sống ở giữa một xã hội nặng gánh vì nghèo đói và tham nhũng, bị cám dỗ
buông xuôi”. Hàng giáo sĩ phải đối mặt với “những thách thức của việc loan báo
tính triệt để của Tin Mừng trong một xã hội mà người ta đã quá quen với việc loại
trừ xã hội, sự phân cực và bất bình đẳng khủng khiếp”. Họ phải nhớ rằng “những
người nghèo đang ở trung tâm của Tin Mừng, là trái tim của Tin Mừng; nếu chúng
ta loại bỏ những người nghèo ra khỏi Tin Mừng, chúng ta không thể hiểu được
toàn bộ thông điệp của Chúa Giêsu Kitô”(II). Tóm lại, với Đức giáo hoàng
Phanxicô, “tất cả chúng ta phải vâng theo tiếng gọi của Ngài [Chúa Giêsu] là ra
đi từ vùng đất tiện nghi của mình để đến với các vùng ‘ngoại vi' đang cần ánh
sáng Tin Mừng” (EG 20).
X. TRONG TẤT CẢ MỌI SỰ, HÃY LÀ MỘT “MÔN ĐỆ TRUYỀN
GIÁO” CHÂN CHÍNH
Trong Niềm Vui của Tin Mừng, Đức giáo hoàng
Phanxicô đề nghị canh tân truyền giáo sâu sắc cho toàn thể Giáo Hội; chắc chắn
các giáo sĩ là trung tâm của đổi mới này. Đức Phanxicô khẳng định rằng chúng ta
cần một “Giáo Hội rao giảng Tin Mừng, đi ra khỏi chính mình,” chứ không phải là
một Giáo Hội “quy về mình” và “sống cuộc sống trong chính mình, của chính mình,
cho chính mình”. Tôi ước mơ một ‘chọn lựa truyền giáo', nghĩa là, một nỗ lực
truyền giáo có khả năng biến đổi mọi sự, để các thói quen, các cách hành động,
các giờ giấc và chương trình, ngôn ngữ và các cơ cấu của Hội Thánh có thể được
khai thông thích hợp cho việc loan báo Tin Mừng cho thế giới hôm nay, hơn là
cho sự bảo tồn của Hội Thánh... Mọi sự canh tân của Hội Thánh phải lấy truyền
giáo làm mục tiêu để tránh rơi vào nguy cơ của một Hội Thánh quy vào chính
mình” (EG 27).
“Việc vươn ra truyền giáo là một hệ quy chiếu cho mọi hoạt động của Hội Thánh... Chúng ta cần phải chuyển đổi ‘từ một nền mục vụ thuần túy bảo tồn sang một mục vụ dứt khoát mang tính truyền giáo'” (EG 15). “Tôi muốn nhấn mạnh rằng những gì tôi đang cố gắng trình bày ở đây mang ý nghĩa của một kế hoạch và có những hệ quả quan trọng... Trên khắp thế giới, chúng ta phải ‘thường xuyên trong trạng thái truyền giáo'” (EG 25).
Một cái nhìn sâu
sắc quan trọng của Đức giáo hoàng Phanxicô là “tất cả chúng ta là những môn đệ
truyền giáo” (EG 119); qua bí tích Rửa tội, “mọi thành viên của Dân Chúa phải
trở nên những môn đệ truyền giáo” (EG 120). Mọi Kitô hữu là “những nhà truyền
giáo”. “Tân Phúc Âm hóa đòi hỏi sự dấn thân thực sự của từng cá nhân tín hữu...
Mọi Kitô hữu đều là những người truyền giáo theo mức độ mà họ gặp gỡ tình
thương của Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô: chúng ta không còn nói mình là những
‘người môn đệ' và ‘người truyền giáo', nhưng đúng hơn, chúng ta luôn luôn là những
‘người môn đệ truyền giáo'” (EG 120). “Nguyện cho thế giới trong thời đại của
chúng ta, một thế giới đang kiếm tìm, khi thì trong lo âu, khi thì trong hy vọng,
có thể nhận được Tin Mừng không phải từ những người rao giảng rầu rĩ, chán nản,
mất kiên nhẫn hay lo âu, nhưng từ những thừa tác viên Tin Mừng đang sống một cuộc
đời đầy nhiệt huyết, những người trước đó đã nhận được niềm vui của Đức Kitô
(EG 10; cf. EN 75).
Đức Phanxicô khẳng
định: “Là Kitô hữu không phải là kết quả của một chọn lựa đạo đức hay một ý tưởng
cao siêu, nhưng là gặp gỡ với một biến cố, một con người, sự gặp gỡ đem đến cho
cuộc đời một chân trời mới và một hướng đi quyết định” (EG 7; cf. Benedict XV).
Với Đức giáo hoàng Phanxicô, mỗi Kitô hữu “phải lớn lên trong sự ý thức rằng bản
thân họ luôn luôn cần được loan báo Tin Mừng” (EG 164). Trong chương Hai (Niềm Vui của Tin Mừng, từ số 50 đến số
109), Đức Phanxicô tập trung vào những thách thức phải đối mặt với việc loan
báo Tin Mừng ngày hôm nay; Đức Thánh Cha khẳng định: “Các thách thức xuất hiện
là để bị vượt qua! Chúng ta hãy là những con người thực tế, nhưng không để mất
niềm vui, sự táo bạo và sự dấn thân trong hy vọng tràn trề của chúng ta. Đừng để
mình bị cướp mất nhuệ khí truyền giáo” (EG 109). Hoặc một lần nữa, “Tôi lặp lại,
Chúng ta đừng để mình bị cướp mất niềm vui loan báo Tin Mừng” (EG 83).
Bản trình bày
khiêm tốn này đã tìm cách làm nổi bật mười đặc điểm then chốt trong tầm nhìn
sâu sắc của Đức giáo hoàng Phanxicô về thừa tác vụ linh mục. Nhằm mục đích
trình bày rõ ràng, các chất liệu phong phú của Đức Phanxicô đã được sắp xếp
theo chủ đề, với mười suy tư nền tảng, từ đó hình thành nên một tổng thể tích hợp.
Người viết khác có thể đã chọn một phong cách khác để trình bày. Tuy nhiên, điều
quan trọng là cho người đọc thâm nhập vào sự khôn ngoan sâu sắc của Đức giáo
hoàng Phanxicô; thực sự, sự sắp xếp này là hoàn toàn thứ cấp so với nguyên gốc
tài liệu của Đức giáo hoàng.
Những tư tưởng của
Đức giáo hoàng Phanxicô về chức linh mục phát xuất từ niềm tin sâu sắc của
ngài. Ngay lúc khởi đầu triều đại giáo hoàng, Đức Phanxicô đã viết: “Truyền
giáo vừa là một niềm say mê Chúa Giêsu, vừa đồng thời là niềm say mê dân của
Người. Khi chúng ta đứng trước Chúa Giêsu chịu đóng đinh... Chúng ta một lần nữa
nhận ra rằng Người muốn dùng chúng ta để đến gần với dân yêu dấu của Người hơn.
Người chọn chúng ta từ giữa dân của Người và sai chúng ta đến với dân của Người;
nếu không có ý thức thuộc về dân này, chúng ta không thể hiểu được căn tính thẳm
sâu của mình” (EG 268). Một lần nữa trong sứ điệp của mình cho Chúa nhật Truyền
giáo Thế giới năm 2015, Đức Phanxicô đã khẳng định: “Truyền giáo là một niềm
đam mê đối với Chúa Giêsu và đồng thời cũng là một niềm đam mê đối với dân của
Người”. Trong bài phát biểu với những Hội Truyền giáo Giáo hoàng năm 2016, Đức
Phanxicô nói về “niềm đam mê đối với Chúa và sứ mạng của Hội Thánh”; ngài để lại
cho cử tọa (và chúng ta nữa) một thách thức rõ ràng: “Chúng ta phải lớn lên
trong niềm đam mê truyền giáo!” (XX).
_________
Những nguồn tài liệu quan trọng
Nguồn tư liệu từ Đức giáo hoàng Phanxicô về chức linh mục là vô cùng phong phú và dồi dào. Nó có sẵn cho các độc giả trong một loạt các nguồn internet và in ấn; thông thường là cũng những tài liệu đó có thể được tìm thấy trong nhiều dạng thức kỹ thuật số và in ấn khác nhau. Để dễ dàng cho việc ‘tư liệu hóa' các trích dẫn của Đức giáo hoàng Phanxicô trong phần trình bày này, một hệ thống tham chiếu đơn giản đã được sử dụng. Mỗi phần trong số các tài liệu được trích dẫn có chứa “chất liệu về chức linh mục” cụ thể từ Đức giáo hoàng Phanxicô được xác định bằng chữ kép của bảng chữ cái; một nhà nghiên cứu quan tâm có thể dễ dàng xác định vị trí các tài liệu cụ thể, không có vấn đề gì trong định dạng hoặc ngôn ngữ nó xuất hiện. Tất cả điều người ta cần phải làm là kiểm tra ngày và mô tả của một tài liệu cụ thể của giáo hoàng. Trong văn bản của phần trình bày này, chỉ có các chữ kép xuất hiện ở phần cuối của một trích dẫn. Hy vọng rằng, phương pháp đơn giản này tránh được một cách quá phức tạp và cồng kềnh của tài liệu, trong khi cung cấp các nguồn của các trích dẫn cụ thể từ Đức giáo hoàng Phanxicô. Các tài liệu xuất hiện dưới đây được trình bày theo thứ tự thời gian, bắt đầu từ năm 2013 và kéo dài đến năm 2016.
AA 28.3.2013: Bài giảng
thánh lễ Dầu tại Vương cung Thánh đường thánh Phêrô.
BB 21.4.2013: Bài giảng
lễ phong chức mười linh mục tại Vương cung Thánh đường thánh Phêrô.
CC 24.11.2013: Tông
huấn Niềm Vui của Tin Mừng.
DD 2013: Sách của
Jorge Bergoglio và Abraham Skorka: Thiên đường và Trần thế [On Heaven and Earth].
EE 17.4.2014: Bài giảng
thánh lễ Dầu tại Vương cung Thánh đường thánh Phêrô.
FF 11.5.2014: Bài giảng
lễ phong chức 13 linh mục tại Vương cung Thánh đường thánh Phêrô.
GG 6.6.2014: Bài giảng
lễ sáng tại Casa Santa Marta
HH 22.12.2014: Nói
chuyện với giáo triều Rôma.
II 16.1.2015: Bài giảng
cho hàng giáo sĩ tại nhà thờ chính tòa Manila.
JJ 14.2.2015: Nói
chuyện tại Hội đồng Hồng y.
KK 2.4.2015: Bài giảng
thánh lễ Dầu tại Vương cung Thánh đường thánh Phêrô
LL 26.4.2015: Bài giảng
lễ phong chức 19 linh mục tại Vương cung Thánh đường thánh Phêrô.
MM 2.5.2015: Bài giảng
tại North American College ở Rôma dịp cử hành “Ngày của giáo hoàng”.
NN 6.8.2015: Bài giảng
lễ Chúa Hiển dung.
OO 20.11.2015: Bài
nói chuyện cho Hội nghị về “Thừa tác vụ Linh mục” theo tài liệu của Công đồng
Vaticanô II.
PP 21.12.2015: Nói
chuyện với giáo triều Rôma.
QQ 24.3.2016: Bài giảng thánh lễ Dầu tại Vương cung Thánh đường thánh Phêrô.
RR 17.4.2016: Bài giảng cho các linh mục nhân Ngày Thế giới Cầu nguyện cho Ơn gọi.
SS 29.5.2016: Bài giảng
tại Năm thánh cho hàng Phó tế.
TT 2.2.2016: Bài suy niệm đầu tiên trong Năm thánh cho Linh mục.
UU 2.2.2016: Bài suy niệm thứ hai trong Năm thánh cho Linh mục.
VV 2.2.2016: Bài suy niệm thứ ba trong Năm thánh cho Linh mục.
WW 3.6.2016: Bài giảng
lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu.
XX 4.6.2016: Nói
chuyện với Hội nghị những Hội Truyền giáo Giáo hoàng.
Trích Tập san Hiệp Thông / HĐGMVN, Số 99 (tháng 3 & 4 năm 2017)
- Diễn văn Đức Thánh Cha cho thành viên Thượng Hội Đồng của Giáo hội Công giáo Armenia ( 29/02/2024)
- Bài nói chuyện của Đức Thánh Cha tại Hội nghị quốc tế về thường huấn cho các linh mục ( 08/02/2024)
- Đức Hồng Y You: Đào tạo các linh mục để mang lại ánh sáng cho thế giới bị tục hóa ( 07/02/2024)
- Học cách giảng lễ từ Chúa Giêsu ( 20/12/2023)
- Linh mục triều và dòng có gì khác? ( 22/11/2023)
- Thường huấn linh mục là cần thiết ( 05/10/2023)
- Linh mục và việc đào tạo phụng vụ ( 29/09/2023)
- Diễn văn của Đức Thánh Cha trong giờ cầu nguyện cùng Đức Mẹ với hàng giáo sĩ giáo phận Marseille ( 23/09/2023)
- Diễn văn của Đức Thánh Cha trong buổi gặp các giám mục, linh mục, tu sĩ, và các nhân viên mục vụ ( 02/09/2023)
- Kinh nghiệm về Thiên Chúa hay chỉ là gặp gỡ chính mình? ( 01/09/2023)