ĐỨC CHA LAMBERT DE LA MOTTE VA
VIỆC PHAN DỊNH THẦN LOẠI
Nt. Catarina Dương Thị Thu Trang
Hội Dòng Mến Thánh Giá Huế
Năm 2022
LỜI MỞ ĐẦU
Cuộc sống của người Kitô hữu và cả đời tu nói chung, dường như hơn bao giờ
hết, chúng ta đang phải đối diện từng ngày với những biến động chóng mặt của thế
giới và xã hội. Chúng ta đang chứng kiến nhiều thế lực tục hóa xã hội ngày càng
tăng, như muốn cuốn trôi đi những giá trị căn bản của đời sống đức tin, luân
lý, đạo đức… và cũng có nguy cơ làm mất phương hướng cho những ai muốn vươn tới
sự trọn lành.
Trước tình trạng đó, việc mở lòng ra để Thần Khí Thiên Chúa tác động nơi
tâm hồn người thánh hiến, là lời mời gọi mang tính khẩn thiết cho hành trình tiến
về phía trước. “Tĩnh lặng, lắng nghe, chiến đấu, tỉnh thức, phân định” trong
lãnh vực thiêng liêng, là những chủ đề được Đức Thánh Cha Phanxicô quan tâm rất
nhiều trong các giáo huấn của ngài, đặc biệt nơi Tông huấn Gaudete et Exultate-
Hãy Vui mừng và Hân hoan. Ngài nói: “Đời Kitô hữu là một cuộc chiến đấu liên lỉ.
Cần phải có sức mạnh và lòng can đảm để chống lại các cám dỗ của ma quỷ và để
loan báo Tin Mừng. Cuộc chiến này rất cao đẹp, vì cho phép chúng ta ăn mừng mỗi
khi Chúa chiến thắng trong cuộc đời của chúng ta”[1].
Nhưng trong cuộc chiến này, làm sao để biết một điều đến từ Thánh Thần hay
từ thế gian hoặc ma quỷ mà không cần phân định? Việc phân định do vậy trở nên
thật sự cần thiết, không chỉ vào những thời khắc đặc biệt, mà phải thực hành mỗi
ngày, như là công cụ chiến đấu để giúp chúng ta theo Chúa tốt hơn[2].
Khởi đi từ sự quan tâm và định hướng của Giáo Hội, bài nghiên cứu với chủ đề
“Đức cha Lambert de la Motte và việc phân định thần loại”, bằng cách điểm qua
những mẫu chuyện kể về những bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời của ngài, được
ghi lại trong tác phẩm “Vie de Monseigneur la Motte - Cuộc đời Đức cha Lambert
de la Motte” của sử gia Jacques-Charles de Brisacier, mong được góp phần giúp
chúng ta cảm nhận được: yếu tố phân định, là một phần không thể thiếu trong đời
sống thiêng liêng của Đức cha Lambert. Ngài là mẫu gương khao khát tìm kiếm
thánh ý Chúa và đem ra thực hành cho mỗi người chúng ta, những chứng nhân Tin Mừng
cho Chúa và Giáo Hội qua mọi thời đại.
Sau cùng, qua tập sách nhỏ này, xin gói ghém tâm tình biết ơn của người viết
đối với các bậc thầy đời sống tâm linh, cách riêng các cha Dòng Tên trong các
khóa Huấn luyện Người Hướng dẫn Linh thao, những vị thầy và bạn bè đã cung cấp
nguồn tài liệu và góp ý tích cực cho bài viết được hoàn thành như ý nguyện.
PHẦN I
- NHỮNG YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG TRÊN ĐỜI
SỐNG TÂM LINH CỦA ĐỨC CHA PIERRE
LAMBERT DE LA MOTTE[3]
1. Trường
Dòng Tên
Khoảng năm 1634, Pierre Lambert học trung học phổ thông tại Trường “Collège
de Mont” do các tu sĩ Dòng Tên điều khiển ở thành phố Caen. Theo lời chứng của
các thầy dạy cậu, thì chỉ trong một thời gian ngắn, cậu đã đạt được những tiến
bộ đáng kể[4]. Đặc điểm nổi bật của nền giáo dục do Dòng Tên
truyền đạt cho học sinh là, song song với các môn học nhân văn, học sinh được
hướng dẫn “đi đường nhân đức trong Hiệp hội
Thánh Mẫu (Congrégation Mariale) do chính Dòng Tên thành lập; nghĩa là “giúp
cho các hội viên canh tân nội tâm…”; làm
cho họ thành những “giáo dân Dòng Tên” đích thực, quen thuộc với việc linh thao
và hoàn toàn hướng về việc tông đồ nhằm biến cải xã hội, với mục đích “tái Công
giáo hoá” toàn bộ xã hội nhờ một đời sống gương mẫu và chu toàn công việc, các
chức vụ cao trọng mà họ được mời gọi đảm nhận trong “thế gian” theo đúng như Kitô giáo dạy[5].
Phương pháp giáo dục của Dòng Tên đã giúp cho Pierre Lambert có một nhân
cách mạnh mẽ, có khả năng đương đầu với nghịch cảnh và thử thách trong cuộc sống,
tập sống đời khổ chế và được khai tâm về lòng kính mến Đức Maria.
2. Trường
Đại học thành phố Caen
Sau trung học, Pierre Lambert theo học Luật tại Đại học thành phố Caen[6]. Năm 1646, sau khi tốt nghiệp Đại học luật,
Pierre Lambert bắt đầu con đường sự nghiệp. Khởi đầu, ngài làm luật sư trong Nghị Viện (advocat en Parlement)[7]
thành phố Paris, rồi chỉ trong thời gian rất ngắn, chuyển qua làm thẩm phán tại
Toà án Thuế vụ (Cour des Aides), thành phố Rouen lúc mới 22 tuổi. Vì chưa đủ tuổi
luật định là 25 để làm thẩm phán, nên ngài đã xin và nhận được phép chuẩn của
vua Louis XIV[8]. Ngài giữ chức vụ này tại thành phố Rouen trong
vòng chín năm. Sau đó, ngài từ chức và xin gia nhập hàng giáo sĩ, chịu chức
linh mục ngày 27.12.1655.
3. Các vị
linh hướng
3.1. Cha
Julien Hayneuve, Dòng Tên (1588-1663)
Linh đạo của Dòng Tên đã ảnh hưởng rất sớm trên tâm hồn cậu học sinh Pierre
Lambert trong thời gian trung học phổ thông. Ngài quý trọng các tu sĩ Dòng Tên
hơn cả[9],
vì thế trong chín năm hành nghề tại Toà án Thuế vụ Rouen (1646-1655), chàng thẩm
phán trẻ quyết định sống theo sự chỉ dẫn của vị linh hướng đầu tiên của mình là
cha Hayneuve[10] Dòng Tên, đang là Viện trưởng trường “Collège de
Rouen”[11]. Ngài “là một
nhân vật khá nổi tiếng với các sách đạo đức của ngài. Trong thế kỷ này, khó tìm
ra vị tu sĩ nào được như cha Hayneuve: sống siêu thoát trần gian, kết hiệp mật
thiết với Thiên Chúa, khiêm nhượng thẳm sâu, nguyện ngắm cao siêu, nghiêm khắc
với bản thân, hiền hoà với tha nhân, sáng suốt trong phương châm sống lẫn trong
việc phân biệt các thần loại, vững vàng trong nhân đức lẫn trong khuyên bảo,
hãm mình bên trong, phạt xác bên ngoài, trung thành với đặc sủng cũng như
chuyên tâm lo thánh hoá những người đặt tin tưởng nơi cha”[12].
Về mặt giáo thuyết, Pierre Lambert “đặt
trọng tâm vào Chúa Kitô, đề cao ý chí, cổ võ đời sống bí tích, chú ý đến việc
tông đồ”[13].
Nhà thẩm phán đạo đức này gặp cha linh hướng hằng ngày, thường xuyên đi nhà
thờ của các tu sĩ Dòng Tên để nguyện ngắm và đọc kinh nhật tụng, trước khi đến
toà án làm việc[14].
3.2. Ông
Jean de Bernières de Louvigny (1602-1659)
Khoảng cuối năm 1654, Thiên Chúa đã soi dẫn ngài đến sống bên cạnh ông Jean
de Bernières ở Caen một thời gian. Vị thứ hai hướng dẫn đường thiêng liêng cho
cậu Lambert này, là một giáo dân đạo đức nổi tiếng tại vùng Normandie, gia nhập
Dòng Ba Phanxicô. Ông cũng được đào tạo bởi các tu sĩ Dòng Tên, chịu ảnh hưởng
sâu xa linh đạo của cha linh hướng Chrysostome de Saint-Lô[15], tu sĩ Dòng Ba Phanxicô, với lý thuyết “không quan tâm tới các thụ tạo… để chỉ bận
tâm về một mình Thiên Chúa”[16]. Ông đã có sáng kiến lập ra Ẩn viện Caen,
thu hút nhiều linh mục, tu sĩ, giáo dân đến tĩnh tâm nhiều ngày dưới sự hướng dẫn
của ông[17].
Sau khi ông Bernières qua đời, người ta đã xuất bản tác phẩm rất nổi tiếng
của ông: “Người Kitô Hữu Nội Tâm” (Le Chrétien Intérieur). Chính Đức cha
Pallu đã từng khuyên nên sử dụng cuốn sách này trong Chủng viện Hội Thừa Sai
Paris[18].
Nhờ sự hướng dẫn đàng thiêng liêng của một bậc thầy giỏi giang như vậy,
Lambert đã có được những bước tiến thật lớn trên con đường chiêm niệm và ngài
luôn tha thiết cầu xin Chúa biểu lộ cho ngài biết bậc sống nào Chúa muốn ngài
đi theo[19].
Ngài gia nhập Hiệp Hội Thánh Thể tại Caen và Hiệp Hội Khổ Nhục Thánh do ông
Bernières phụ trách.
Sau cuộc tĩnh tâm cuối năm 1654 Pierre Lambert đã đi đến ba quyết định lớn
trong đời: bỏ nghề thẩm phán, tiến đến ơn gọi linh mục, và tham gia chương
trình truyền giáo tại Canada mà ông Bernières đang nhiệt tình vận động. Từ Ẩn
viện trở về Rouen, ngài chính thức từ chức tại Toà án Thuế vụ ngày 30.04.1655,
rồi đi Paris với ông Bernières, tìm cách dấn thân vào chương trình truyền giáo
Canada.
3.3. Cha
thánh Jean Eudes (1601-1680) và
Chủng viện Coutances
Vào cuối tháng mười năm 1655, ngài Pierre Lambert chọn Chủng viện Coutances
của cha thánh Jean Eudes để tĩnh tâm 40 ngày, chuẩn bị cho lễ thụ phong linh mục.
Nơi đây, ngài Lambert chịu ảnh hưởng của vị linh mục thánh thiện này về nhiều
phương diện. Có thể nói, cha thánh Jean Eudes trở nên một gương sáng và là một
khuôn mẫu cho nhiều sinh hoạt linh mục sau này của cha Lambert. Tại Rouen, ngài
rất chú tâm tới hàng giáo sĩ: tổ chức những buổi thuyết giảng, huấn đức cho các
linh mục tại Cambremer (giữa Lisieux và Caen), lập chủng viện tại Rouen. Cũng
như cha thánh Jean Eudes, cha Lambert xây nhà Trú Ẩn (le Refuge) cho thiếu nữ
hoàn lương tại Rouen, nhà tĩnh tâm cho những ai, cả nam lẫn nữ, muốn từ bỏ Tin
lành để gia nhập Giáo hội Công giáo v.v.[20]
Qua ngài, Pierre Lambert còn tiếp cận với linh đạo Trường phái Pháp[21], do Đức Hồng y Bérulle khai sáng (vì thế
ngày nay người ta thích gọi là “Trường phái Bérulle” hơn)[22] với bốn đặc điểm chính sau đây: “tinh thần tôn giáo thể hiện ra trong nhận
thức về sự cần thiết phải tôn thờ Thiên Chúa (tức trau dồi nhân đức thờ phượng);
chọn Chúa Kitô làm trọng tâm đời sống thần bí; cảm thức về vị trí cao cả của Mẹ
Thiên Chúa; và đề cao bậc sống linh mục”[23].
Đối với cha thánh Jean Eudes, Đức cha còn là một ân nhân vì đã trao cho
ngài Chủng viện tại Rouen trước khi Đức cha rời bỏ quê hương lên đường truyền
giáo.
3.4. Cha
Simon Hallé (1602-1672)
Trên bình diện tu đức cá nhân, yếu tố quan trọng nhất trong thời gian ngài
làm Giám đốc Trung tâm Xã hội Rouen là cha Pierre Lambert đã chọn cha Simon
Hallé[24] làm vị linh hướng mới cho mình. Vị linh hướng thứ
ba này thuộc Dòng Bé Mọn (Les Minimes). Năm 1656, khi cha Pierre Lambert làm
Giám đốc Trung tâm Xã hội thì các cha Dòng Bé Mọn “dành phần lớn các hoạt động tông đồ cho việc truyền giáo (đúng hơn
nên hiểu là giảng “các tuần đại phúc = missions”) nhằm vào những người bất hạnh”. Nơi Dòng Bé Mọn, “cha Pierre Lambert tìm thấy một mẫu tu đức mới,
hoàn toàn phù hợp với cá tính triệt để của ngài: dành ưu tiên cho Tin Mừng, và
trong Tin Mừng, cho cuộc Khổ nạn, yêu mến Chúa Kitô bằng cách bắt chước Người,
đặc biệt ở sa mạc và trên Thánh Giá, làm cho cuộc cải cách Giáo hội được hiện
thực nơi mình nhờ việc đền tội”. Nét mới mẻ nhất là chức năng tông đồ của
việc đền tội. Các tu sĩ làm việc đền tội “vì
tội mình và vì tội những người khác, trong sự kết hợp mật thiết với Chúa
Giêsu-Kitô Cứu Thế”[25]. Dòng Bé Mọn
còn « nổi tiếng là một dòng cực
kỳ nghiêm ngặt… Đời sống của các tu sĩ là đời sống “mùa chay trường”, kiêng thịt
và những thứ liên quan tới thịt như trứng, bơ, sữa, phô-mát... Họ ăn chay, hãm
mình đền tội, thinh lặng gần như suốt đời”[26]. Được cha Hallé hướng dẫn, cha Pierre
Lambert đã sớm gia nhập Dòng Ba của Dòng Bé Mọn, và từng bước đi sâu vào linh đạo
khổ hạnh của Dòng này, là linh đạo sẽ giữ người đệ tử của ông Bernières trong
đường khiêm tốn và từ bỏ[27].
PHẦN II-
ĐỨC CHA PIERRE LAMBERT
DE LA MOTTE VÀ VIỆC PHÂN ĐỊNH THẦN
LOẠI
Cuộc đời của Đức cha kể lại cho chúng ta nhiều kinh nghiệm về cuộc chiến đấu
thiêng liêng trong nội tâm của ngài để nhận biết và thi hành thánh ý Chúa.
Chúng ta sẽ tìm thấy nơi ngài nghệ thuật phân định thần loại, dựa vào những
thúc đẩy thiêng liêng khác nhau xuất hiện trong tư tưởng và tâm hồn trước mỗi sự
kiện, mỗi biến cố, theo mô hình ba bước mà Thánh I-nhã đã trải qua đó là Ý THỨC/ cảm biết; HIỂU BIẾT/ nhận ra và HÀNH ĐỘNG/
đón nhận hoặc loại bỏ[28].
- Ý THỨC: đây là nỗ lực để nhận biết những kinh nghiệm thiêng liêng nào đang xảy ra
trong nội tâm ta, đâu là những thúc đẩy thiêng liêng đang xuất hiện trong tư tưởng
và tâm hồn ta.
- HIỂU BIẾT: là việc gẫm suy về những thúc đẩy ta đã nhận biết.
Cho phép ta hiểu được đâu là những thúc đẩy đến từ Thiên Chúa, và đâu là những
thúc đẩy không phải do Người.
- HÀNH ĐỘNG: tức là việc đón nhận cũng như sống theo những gì
ta đã hiểu ra là xuất phát từ Thiên Chúa, và việc loại bỏ cũng như gạt ra khỏi
cuộc sống ta những gì không phải đến từ Thiên Chúa.
Đối với Đức cha Lambert, sự thờ ơ không chú tâm đến những chuyển động trong
tâm hồn là một thiếu sót lớn trong hành trình thiêng liêng: “…Một sự thiếu sót còn lớn hơn nữa, khi linh
hồn không quan tâm đủ tới các sự thúc đẩy bên trong, hoặc vì cho là chuyện ít
quan trọng, hoặc vì nghĩ mình có thể không cần phải chú ý nhiều. Làm thế, linh
hồn phạm hai tội bất trung: một là lạm dụng ơn lành Chúa ban, hai là chối bỏ những
bổn phận mà cuộc hôn ước thánh thiêng đòi hỏi, khi Chúa thúc đẩy ta từ bên
trong”[29].
Ngài còn khuyên dạy chúng ta: “Phải làm
mọi sự theo ơn gọi của mình chỉ duy nhất do động lực nội tâm thúc đẩy”[30] và chỉ khi thật sự ao ước hiệp nhất với
Chúa Giêsu Kitô bằng một sự liên kết không thể diễn tả được, thì người ta mới
không còn hành động bằng sức riêng mình nữa[31].
Việc phân tích các mẫu chuyện về cuộc đời Đức cha Lambert sau đây, sẽ giúp
chúng ta khám phá những kinh nghiệm đạo đức này của ngài. Nhưng trước hết,
chúng ta cần ôn lại giáo huấn của Thánh I-nhã về: Hai tình trạng của tâm hồn;
khái niệm về hoạt động của Thần lành và Thần dữ và một số các quy tắc phân định
thần loại cơ bản.
1. Giáo
huấn của Thánh I-nhã về việc phân định thần loại[32]
1.1. Hai
tình trạng tâm hồn
“An ủi” và “sầu khổ” là chất liệu quan trọng nhất của việc phân định.
1.1.1. An
ủi thiêng liêng (LT 316), là tình trạng:
- Linh hồn phát khởi một
thúc đẩy nội tâm, khiến linh hồn bừng cháy lửa kính mến Đấng Tạo Hóa và Chúa
mình.
- Linh hồn chảy nước mắt
giục lòng mến Chúa, hoặc bởi đau đớn vì tội lỗi mình, hay vì sự thương khó của
Đức Giêsu.
- Sự gia tăng của lòng
tin-cậy-mến và niềm vui nội tâm, kéo tâm hồn đến những sự trên trời và hướng về
Đấng Tạo Hóa.
1.1.2. Sầu khổ thiêng
liêng (LT 317), là tình trạng ngược lại, khi
linh hồn thấy:
- Tối tăm, xao xuyến bề
trong, bị thúc đẩy về những gì thấp hèn và phàm tục.
- Lo lắng về những xao động
và cám dỗ xúi ta mất tin tưởng, trông cậy, lòng mến.
- Lười biếng, khô khan,
buồn sầu như bị lìa xa Đấng Tạo Hóa.
Có thể nói không thể phân định nếu không biết lắng nghe và nhận biết những
chuyển động từ chính tâm hồn mình. Con đường Thánh I-nhã vạch ra để vươn đến
Thiên Chúa là con đường ngang qua thế giới nội tâm của mỗi con người. Đây cũng
là một trong những con đường đã được chỉ ra bởi rất nhiều tác giả Kinh Thánh, để
ngang qua an ủi hay sầu khổ có thể nhận ra một người đang được Thiên Chúa ở cùng
hay không[33].
1.2. Một
số các quy tắc phân định thần loại
Đây là những quy tắc để cảm biết
và nhận ra phần nào những thúc đẩy
khác nhau trong linh hồn, điều tốt để đón
nhận và điều xấu để loại bỏ (LT
313).
Thánh I-nhã ghi nhận có hai tiếng nói thúc đẩy trong tâm hồn: Thần lành
(Thiên Chúa, các thiên thần) và thần dữ (ma quỷ, thế gian, xác thịt). Cả hai thần
đều có thể tác động và lôi kéo tâm hồn bằng cách tạo ra các tâm trạng vui buồn,
an ủi, sầu khổ, nhưng nhằm mục tiêu khác nhau: Thần lành can thiệp để đưa tâm hồn
đạt đến phần rỗi; thần dữ xúi dục để cướp mất linh hồn.
Khó khăn là bằng cách nào phân định được đâu là tiếng nói của thần lành để
theo, và đâu là tiếng nói của thần dữ để tránh. Thánh I-nhã phân biệt ra hai
tình trạng của đời sống thiêng liêng; trong mỗi chặng, hai thần dùng những chiến
thuật khác nhau.
- Đối với người ở Tuần I Linh Thao (LT 314)
Họ là những người ở trong tình trạng tội lỗi, đi từ tội trọng này đến tội
trọng khác, cần hoán cải đời sống để được phần rỗi.
Thần dữ: sẽ bày ra những thú vui giác quan, trấn
an giả tạo, để giữ chân linh hồn ở trong tình trạng tội lỗi.
Thần lành: tác động ngược lại bằng cách cắn rứt,
thôi thúc lương tâm hoán cải và sống theo lẽ phải.
Cạm bẫy của thần dữ đối với
Tuần I: Chúng dùng ba
cách thế sau để tấn công linh hồn (LT 325-327):
+ Như người vợ hung dữ tấn công dồn dập bắt nạt chồng; nhưng nếu người chồng
hùng hổ lên thì cô ta thua cuộc.
+ Như gã sở khanh dụ dỗ thiếu nữ đoan trang và nói hãy giấu kín; nhưng nếu
cô gái nói ra với bố thì gã liền bỏ chạy.
+ Như vị tướng sẽ tìm cửa thành nào yếu nhất để tấn công. Vì thế mỗi người
phải biết điểm yếu của mình để phòng vệ.
- Đối với người ở Tuần II Linh Thao (LT 329)
Đây là những người đang thăng tiến trên đường của Thiên Chúa.
Thần lành: Ban sự bình an và vui vẻ thiêng liêng thật,
xóa bỏ mọi buồn sầu và xao xuyến do kẻ thù đưa vào.
Thần dữ: chống lại bình an và an ủi thiêng liêng ấy
bằng cách đưa ra những lý do giả tạo, cầu kỳ và ngụy biện khôn cùng.
Cạm bẫy của thần dữ đối với Tuần II: là chúng giả dạng thần lành, bày ra những
ý tưởng hoặc thúc đẩy có vẻ đạo đức thánh thiện để lừa bịp, nhưng sau đó tìm
cách lôi kéo linh hồn đi xa khỏi con đường của Thiên Chúa (LT 332).
* Những quy tắc trên
cũng có thể áp dụng cho việc phân định cá nhân trong cuộc sống mỗi ngày.
2. Những
mẫu chuyện về Đức cha Lambert
Dựa vào lý thuyết đã trình bày trên, khi đọc những mẫu chuyện về cuộc đời của
Đức cha Lambert, chúng ta sẽ tập trung vào những ý tưởng và cảm
giác xuất hiện trong các câu chuyện, tiếp đến là cách ngài suy
nghĩ, suy xét, nhận định nhằm khám phá ra được các kinh nghiệm thiêng
liêng mà Đức cha đã trải qua vào những khoảnh khắc quan trọng trong hành trình
thiêng liêng của ngài. Đây chính là những khoảnh khắc phát xuất ra những yếu tố
liên quan đến giáo huấn về việc phân định thần loại của Thánh I-nhã.
2.1. Mẫu
chuyện thứ nhất: Ủy viên Tòa án Thuế vụ và ơn gọi truyền
giáo tại Canada (1654).
Trong khoảng thời gian làm việc tại Tòa án thuế vụ “lòng ngài bị cuốn hút vào một dấu bí ẩn nào đó mà ngài chưa nhận ra”
(Brisacier, số 16). Cùng lúc đó, dù đang còn là một giáo dân, người ta đã có ý
đề cử ngài làm ứng viên Giám mục Đại diện tông tòa ở Canada (s. 17).
Chúng ta hãy quan sát các biến chuyển nội tâm của ngài Lambert khi nhận được
tin này:
+ “Ngài thấy mình bị phân chia
giữa cảm giác sợ hãi do tính tự ái tạo ra trước bao nhiêu là
công việc gắn liền với cuộc sống truyền giáo ở những đất nước xa xôi, với cảm giác vui sướng tự nhiên khi được đánh giá như một tông đồ có khả năng gánh vác được
chức vụ Giám mục nặng nề trong một đất nước xa lạ” (s. 17).
Ngài Lambert ý thức (cảm biết) về
hai loại cảm giác xảy đến trong lòng ngài đó là: “cảm giác sợ hãi” và “cảm giác
vui sướng”, đồng thời ngài cũng hiểu
rõ (nhận biết) nó xuất phát từ đâu:
cảm giác thứ nhất -“sợ hãi”- là do “tính
tự ái tạo ra”, cảm giác thứ hai -“vui sướng”- xuất phát từ “con người tự nhiên”. Như vậy cả hai cảm
giác ấy đều xuất phát từ bản tính con người tự nhiên chứ không đến từ Thiên
Chúa.
Việc khám phá ra được nguồn gốc sâu xa của các suy nghĩ, cảm
xúc là điều rất quan trọng, có thể nói là mấu chốt của việc phân định thiêng
liêng. Bởi vì, qua sự phân định về nguồn gốc như vậy, mỗi người có thể nhận ra
ý muốn của Thiên Chúa trong bất kỳ tình huống nào mà họ đang sống. Sự phân định về nguồn gốc như thế, Thánh
I-nhã gọi là phân định thần loại[34].
Hay có thể hiểu, ý nghĩa của sự phân định ở đây, biểu thị sự phân biệt giữa
một điều này với một điều khác, giữa một tư tưởng này với một tư tưởng khác. Tiến
trình phân biệt này đòi hỏi việc nhận diện
và xác định được tính cách khác biệt giữa một thực tại thiêng liêng này với một thực
tại thiêng liêng khác. Cụm từ thần loại cho
thấy đối tượng của việc phân định, tức
là những thực thể thiêng liêng nào cần phải được phân biệt với nhau. Thuật ngữ thần loại, theo cách dùng của Thánh
I-nhã, biểu thị các chuyển động của những cảm xúc trong tâm hồn như: niềm vui,
nỗi buồn, hy vọng, sợ hãi, bình an, lo lắng, và những cảm xúc tương tự, cùng với
những tư tưởng đi kèm với chúng, có sức tác động đến đời sống đức tin và bước
đường tiến về Thiên Chúa của linh hồn.
Hoạt động phân định thần loại là một tiến trình qua đó ta tìm cách để phân
biệt các loại thúc đẩy thiêng liêng khác nhau trong tâm hồn mình, nhận biết được
những thúc đẩy thuộc về Thiên Chúa để đón nhận và những thúc đẩy không thuộc về
Người để loại bỏ[35].
Quan sát phản ứng của ngài Lambert trong câu chuyện trên chúng ta sẽ thấy,
một khi ngài nhận ra những cảm giác “sợ
hãi”, “vui sướng” không đến từ Thiên Chúa, hành động tiếp theo của ngài là
loại bỏ ngay. “Ngài không để mình chiều
theo tình cảm sợ hãi hoặc vui thích” (s. 18a). Trái lại “ngài tin cậy phó thác vào Chúa để bắt tay
thi hành điều Người sẽ khuyên dạy”(s. 18b).
Tiếp đến, ngài đã hành động theo ánh sáng ân sủng nhận được từ Thiên Chúa:
+ “Dầu chương trình trên có thành tựu
hoặc không thành tựu, ở chốn nào đó trên trái đất này, nơi ngài sẽ phải sống
cho hết trọn cuộc đời mình, thì ngài cũng đã được dành riêng cho một lối sống ẩn mình, nghèo hèn, đau khổ và
khiêm nhường trước mắt người đời” (s. 18c).
+ Ngài Lambert cũng nhận thức rõ về giá trị của cuộc sống mà ngài sắp thực
hiện: “Một cuộc sống như thế thật khủng
khiếp dưới cái nhìn của cảm giác và của lý trí, nhưng đối với ngài lại mang vẻ
đẹp đẽ dưới cái nhìn của đức tin” (s. 19a).
+ Rồi ngài đi đến hai quyết định:
Quyết định 1:
“Ngài sớm thử nghiệm ngay bằng cách sống ẩn mình trong cô độc, cho đến khi sang
Canada, hoặc đến một nơi nào đó người ta sẽ ấn định cho ngài”(s. 19b).
Quyết định 2: Ngài quyết định“từ nay chỉ dùng lợi nhuận mình để ăn và mặc ở mức đơn giản tột cùng,
hoàn toàn từ bỏ sự quý trọng của thế gian, đến độ lấy làm vui thích khi thấy
người ta nhạo báng lối sống mình, khi mình bị xem là kẻ bạc nhược, bị khinh dể
bởi chính những kẻ trước đó vẫn tôn kính mình, cũng như vui vẻ đón nhận mọi khổ
nhục đổ xuống trên mình”(s. 19c).
Những quyết định này đã được ngài
“long trọng phủ phục thề hứa dưới chân bàn thờ, trước sự chứng giám của ông
Bernières và vài người nữa” (s. 19d).
Hơn nữa để thực hành lời khấn hứa, ít ngày sau “vì bác ái, ngài đem giấy tờ của một thiếu nữ nghèo hèn đến thừa phát lại.
Ông này cho ngài là một tay trung gian ăn huê hồng. Thay vì cải chính, ngài lấy
làm vui mừng vì ông ta đã nghĩ sai về ngài như vậy. Rồi không cần phải có người
dẫn đường, ngài cứ để đầu trần lần xuống các bậc thang với niềm hân hoan đã bị
đời hiểu lầm và coi thường” (s. 19e).
Như thế, mô hình nền tảng làm sườn cho tiến trình phân định thần loại: ý thức, hiểu biết, hành động, mà Thánh
I-nhã nêu ra ở phần tiêu đề các quy tắc phân định thần loại (LT 313), đã được
ngài Lambert áp dụng vào cuộc sống của mình. Nhờ có ý thức thiêng liêng và hiểu
biết thiêng liêng dẫn đường, mà hành động của ngài mới có thể quyết liệt và
đúng hướng[36].
Theo lời cha Brisacier kể lại, vào khoảng tháng 9, tháng 10 năm 1655, người
ta cho ngài Lambert biết “xứ Canada không
phải là nơi Thiên Chúa gọi ngài đến để phục vụ Giáo hội Người” (s. 60). Hay
tin đó, ngài Lambert đón nhận với một thái độ bình tâm trước mọi sự: “Cho dầu ngài có cảm thấy bị thu hút về vùng đất đó như ơn gọi đầu tiên, ngài
vẫn không ngạc nhiên và không buồn phiền khi sự việc thay đổi
như thế. Ngài tự cho mình bất xứng với mọi công việc, nhưng vẫn sẵn sàng nhiệt
tình làm mọi điều người ta yêu cầu, ngay cả việc chăn giữ súc vật ở đồng quê nếu
suốt đời ngài cứ mãi mãi là một giáo dân; hoặc làm một ông cha phụ việc giáo xứ[37]
hay cha phó miền quê, nếu ngài được chỉ định gia nhập hàng giáo sĩ và lãnh nhận
chức linh mục” (s. 60-61).
+ Những từ “không ngạc nhiên, không buồn phiền” là những từ diễn tả trạng
thái bình tâm. Bình tâm là một thái độ nội tâm cần thiết trong phân định thần
loại. Thánh I-Nhã nói về sự bình tâm như sau: “Do đó, cần phải giữ cho mình được bình tâm đối với mọi thọ tạo trong tất
cả những gì nằm trong sự tự do của ta và không bị cấm, đến nỗi chúng ta không ước
muốn sức khỏe hơn bệnh tật, giàu sang hơn nghèo khổ, danh vọng hơn nhục nhã, sống
lâu hơn chết yểu và tương tự như thế đối với mọi sự khác” (LT 23- Nguyên lý
và nền tảng).
Như vậy, bình tâm chính là trạng thái tự do nội tâm, là sự cởi mở và quân
bình, giúp chúng ta ngay từ đầu không nghiêng về một giải pháp này hay giải
pháp kia, nhưng biết lựa chọn nhờ một tiêu chuẩn duy nhất, đó là đem lại điều
gì giúp chúng ta thêm lòng yêu mến Chúa và qua đó yêu thương tha nhân trong môi
trường sống hàng ngày của chúng ta[38].
Nhưng tại sao đối với phân định,
sự bình tâm lại quan trọng như thế? Cha Mark E. Thibodeaux Sj trả lời như sau: “Thưa, đó là vì nếu chúng ta sắp xếp để đưa ra một quyết định mà không
được bình tâm, thì một cách vô thức, việc phân định của chúng ta thế nào cũng bị
lèo lái tới sự lựa chọn mà mình thích. Nếu ta chỉ mở lòng mình ra với một khả
năng, thì chẳng còn gì gọi là phân định nữa. Nhưng khi trở nên bình tâm, ta vượt
lên trên cả việc mở lòng mình ra với các khả năng khác – vì khi đó ta chỉ thực
sự ao ước được bước đi trên bất kỳ nẻo đường nào mà ta nhận thấy là sẽ đem lại
cho vinh danh Thiên Chúa hơn”[39].
2.2. Mẫu
chuyện thứ hai: Chọn lựa bậc sống
Năm 1654, lúc ngài Lambert đang còn làm Ủy viên tại Tòa án thuế vụ ở Rouen,
Normandie, (lúc đó cha Hayneuve Sj. là linh hướng của ngài), thỉnh thoảng lòng
ngài bị cuốn hút vào một dấu bí ẩn nào đó mà ngài không
nhận ra (x. s.16).
Đến cuối năm 1654, khi đến sống bên cạnh Ông Bernières là vị linh hướng mới.
Lần đầu tiên ngài có sự thúc đẩy bên trong[40] muốn lãnh nhận chức thánh để có thể giúp đỡ các
linh hồn ở đất nước mà ngài nghĩ là đang kêu gọi mình đến (x. s.21); ngài cảm
thấy từ lâu mình đã bị cuốn hút vào việc sống theo mẫu gương thời thơ ấu
của vị Thiên Chúa làm người (x. s. 22).
Đồng thời ngài cũng có sự thúc đẩy trong nội tâm là muốn từ
bỏ chức vụ Ủy viên Tòa án thuế vụ đang nắm giữ (x. s. 24).
Những chi tiết “lòng bị cuốn hút, sự thúc đẩy bên trong, cảm thấy…” là những dấu
chỉ giúp chúng ta nhận biết Thiên Chúa đang mời gọi ngài Lambert vào một ý hướng
đặc biệt nào đó. Chính ngài Lambert cũng cảm thấy rằng những tiếng gọi ấy xuất
phát từ những rung động bên trong con tim, và ngài chỉ khao khát một điều là học
được cách phân biệt thật chính xác những rung động nội tâm đó, để can đảm đáp
trả Tiếng Gọi đang kêu mời.
2.2.1. Từ bỏ Tòa án Thuế vụ
Trong câu chuyện này mọi sự đều xoáy vào các thúc đẩy bên trong với những
hoạt động của thần lành và thần dữ tác động lên những thúc đẩy đó. Chúng ta hãy
quan sát về những hoạt động của thần dữ và thần lành khi mà “tất cả các sự kiện trên liên kết với viễn cảnh
ngài sắp quyết định từ bỏ chức vụ đang nắm giữ, tạo ra một cám dỗ nặng nề cho
ngài” (s. 24a).
a. Hoạt động của thần dữ (ma
quỷ)
Đoạn văn kể lại như sau: “Ma quỷ cho
rằng ngài sắp thực hiện một hành vi rồ dại không thể chịu đựng nỗi, và nếu ngài
rời bỏ quyền hành, tiền bạc, sẽ chẳng còn ai quý trọng ngài nữa. Nếu ngài cứ tiếp
tục đi theo niềm say mê mà ngài cảm thấy, thì chỉ trong ít ngày nữa, chẳng còn
chút của cải cũng như bạn bè. Ngài sẽ được trở nên nghèo khó thực sự như ý muốn,
nhưng sẽ bị mọi người cùng oán trách vì đã rời bỏ một chức vụ đang giúp ích cho
công chúng và được mọi người tán thành, để đi vào con đường lắm ngóc ngách mà bản
thân ngài cũng chưa biết kết cục sẽ như thế nào” (s. 24b).
Chiến lược của ma quỷ lúc này là bày ra những trở ngại bằng cách gieo vào
tâm trí những ý nghĩ: “một hành vi rồ dại,
không thể chịu đựng nỗi […] đi vào con đường lắm ngóc ngách mà bản thân cũng
chưa biết kết cục sẽ như thế nào”; chúng còn đưa ra những lý lẽ giả tạo “nếu…thì; nếu…thì” để gây băn khoăn lo lắng,
chán nản nơi người muốn tiến lên hơn trên đường phụng sự Thiên Chúa. Đó chính
là những gì Thánh I-nhã đã chỉ ra trong quy tắc II, phân định thần loại: “Đường lối riêng của thần dữ là cắn rứt, làm
buồn phiền và đặt chướng ngại bằng cách gây băn khoăn lo lắng với những lý lẽ
giả tạo để người ta khỏi tiến tới” (LT 315).
Đúng như trường hợp của ngài Lambert, khi bị cám dỗ như thế, ngài đã rơi
vào cơn sầu khổ thiêng liêng mãnh liệt: “lúc
này một cơn buồn sầu nặng nề xâm chiếm ngài, nhưng chẳng mấy chốc nó đã
tan biến cách dễ dàng” (s. 25a). Điều này chứng tỏ ngài đã nắm vững
đường lối hoạt động thường thấy của ma quỷ, nên ngài mới có thể điểm mặt nó và
sớm vượt qua cơn sầu khổ thiêng liêng nhanh đến thế: chỉ trong chốc lát.
b. Hoạt động của thần lành
Thánh I-nhã cho biết: “Cách thức riêng của thần lành là làm cho
can đảm và sức mạnh, an ủi, nước mắt, ơn soi giục và an nghỉ, giảm bớt và hủy
diệt các trở ngại để cho người ta tiến lên trong đàng lành” (LT 315 b).
+ Ơn soi giục: Ở đây,
đối với ngài Lambert, “khi chợt nhớ lại mình đã cản trở ơn sủng tuôn đổ
xuống trong thời gian lo việc đời, ngài cảm
thấy vô cùng đau đớn vì đã từ lâu chống lại sự lôi cuốn của Thiên Chúa,
chính là chống lại hạnh phúc của chính mình. Nỗi hối hận ấy mạnh mẽ đến mức ngài không còn cảm thấy
gì khi sắp mất mát tất cả mọi thứ khác (s. 25b).
Có thể nói rằng “nhớ lại” là việc
của trí óc, “cảm thấy vô cùng đau đớn”
là xác tín của con tim, “ngài không còn cảm
thấy gì khi sắp mất mát tất cả mọi thứ khác” là kinh nghiệm tâm linh có được
nhờ việc nhớ lại trong trí và cảm xúc của con tim. Như vậy trong phân định thần
loại có sự phối hợp của cả ba yếu tố: suy
luận, cảm xúc và kinh nghiệm tâm linh, bởi vì Thiên Chúa có thể ảnh hưởng
trên chúng ta qua những gì chúng ta suy nghĩ, cũng như qua những cảm xúc an ủi thiêng
liêng và sầu khổ thiêng liêng[41].
+ Trao ban “can đảm và sức mạnh”: Thiên Chúa đã ban cho ngài Lambert có được
kinh nghiệm về sự khôn ngoan đích thực, đó là “từ bỏ mọi sự để theo Chúa Giêsu Kitô khó nghèo và khiêm hạ” (s. 25c); Thiên Chúa
cũng giúp ngài nhận ra:“chẳng có sự phi lý dị hợm nào đáng thương
hơn cái ngông nghênh của những người sợ phải từ bỏ hết mọi sự để mua lấy sự
hoàn thiện, hoặc ngay cả những kẻ trì hoãn một lúc nào đó sự hoán cải trọn vẹn
của họ, bởi nỗi sợ vô nghĩa hảo huyền rằng, từ nay về sau, họ sẽ bị liệt vào hạng
chẳng là gì cả trên thế gian”(*)[42] (s. 25d).
Những suy tư trên đã làm cho ngài trở nên mạnh mẽ hơn với quyết tâm sống
theo con đường khổ chế.
+ Tiêu diệt mọi trở ngại: Sau tất cả những gì xảy ra, vào ngày
30.04.1655, ngài Lambert quyết định thôi giữ chức vụ thẩm phán Toà án thuế vụ[43] (x. s. 26).
+ Trao ban sự an ủi, củng cố
tâm hồn: Theo sử gia
Brisacier thì dường như “Chúa đã đổ ân sủng
đi kèm với việc ngài Lambert từ chức, nên từ nay ngài cảm thấy được tự do và dấn
thân hơn bao giờ hết. Ngài trở lại đền Notre-Dame de la Délivrande (Đức Mẹ Giải
Cứu) để nhờ Mẹ, dâng lên Con Mẹ những tâm tình thống hối vì những bất trung
trong quá khứ nay được đổi mới tại nơi thánh này. Ngài muốn đền bù tương xứng với
sự thánh thiện của Thiên Chúa, là Đấng ngài tin rằng ngài đã cực kỳ làm ô danh
bởi một cách sống thờ ơ, trì trệ và bất toàn, khác xa với sự tinh tuyền Kitô
giáo mà ngài đã tuyên thệ (*).Thiên Chúa, người Cha xót thương, đã
ân thưởng cho đức khiêm hạ và lòng nhiệt thành của ngài bằng cách ban cho ngài
tức khắc một niềm ham thích mới đối
với những gì rồi đây sẽ làm ngài thêm khổ nhục và bị coi thường” (s. 26).
Kinh nghiệm thiêng liêng của Thánh I-nhã như đã thấm vào người môn đệ
Lambert, khi ngài để tâm liên tục và quan sát cẩn thận những tư tưởng phát sinh
từ hai loại cảm giác sầu khổ và an ủi trên. Ngài quan sát cả những hiểu biết do
ân sủng thúc đẩy, đi kèm với niềm an ủi thiêng liêng, lẫn những ý nghĩ lộn xộn
nảy sinh từ cơn sầu khổ thiêng liêng. Sự ý thức rõ ràng và sáng suốt đó đã giúp
ngài chọn lựa và hành động theo sự khôn ngoan thiêng liêng, đó là đón nhận những gì thuộc về Thiên Chúa và
gạt bỏ những gì thuộc về kẻ thù; đồng
thời cũng giúp ngài thoát khỏi những mánh khóe lừa bịp của ma quỷ để tiến tới sự
tự do thiêng liêng, đó là bằng trọn cả nghị lực của con người, ngài can đảm tước
bỏ mọi danh dự của chức vụ thế gian, để đi theo Tiếng Gọi của Đấng ngài mến yêu[44].
2.2.2. Hướng tới ơn gọi Linh
mục
Trở lại câu chuyện lần đầu tiên, khi ngài Lambert nhận được sự thúc đẩy từ
bên trong muốn lãnh nhận chức thánh, để có thể giúp đỡ các linh hồn ở đất nước
mà ngài nghĩ là Thiên Chúa đang kêu gọi ngài đến. Đây là một bước ngoặt quan trọng
trong cuộc đời, khiến ngài phải làm hai cuộc hành hương với hai kỳ tĩnh tâm kéo
dài 30, 40 ngày. Ngài đã hy sinh cầu nguyện rất nhiều để có thể vượt thắng bao
thử thách hầu tiến đến một sự chọn lựa chắc chắn và lãnh nhận thiên chức Linh mục.
1) Cuộc tĩnh tâm 30 ngày chuẩn bị lãnh nhận các chức nhỏ[45]
Chúng ta sẽ đặc biệt bàn về cuộc hành hương khổ nhục vào cuối tháng 7 năm
1655, từ Caen tới Rennes, cách đó khoảng 180 cây số và từ Rennes trở về Caen
(s. 43-58).
Tại Caen, sau cuộc tĩnh tâm 30 ngày, bắt đầu từ ngày 25.06.1654, vị hướng dẫn
tĩnh tâm chấp nhận cho ngài Lambert thực hiện cuộc hành hương khổ nhục, để làm
tuần cửu nhật bên mộ vị tu sĩ nổi tiếng thánh thiện Jean de Saint-Samson.
Trong cuộc hành hương này, chúng ta sẽ gặp thấy những kinh nghiệm an ủi và
sầu khổ thiêng liêng liên tiếp xảy ra mỗi khi ngài Lambert mong ước tiến tới
hơn trong việc phụng sự Thiên Chúa và người nghèo.
Đoạn văn kể lại như sau: “Sau khi người
ta đã ấn định nơi hành hương cho con người ham thích sống ẩn dật đó, bỗng nhiên
trong ngài bùng lên tình yêu điên dại,
đầy khôn ngoan của Thập Giá, và những thực hành khó làm nhất trong việc phó
thác hoàn toàn cho Đấng Quan Phòng.
Trước hết, ngài thực sự thích thú mong sao người ta cho
phép ngài khi đến Rennes, sẽ đem biếu hết những gì còn sót lại trong chuyến
hành hương, để trải nghiệm và dùng tình yêu nâng đỡ những người hoàn toàn thiếu
thốn mọi thứ trong cuộc sống. Và cho dầu trước ngày ra đi ngài cảm thấy dâng lên một nỗi ghê tởm dự định
đó, dựa trên một loạt các lý lẽ rất hiển nhiên cũng như dựa trên nỗi sợ hãi tự nhiên về các tai họa có
thể gặp, nhưng ngài vẫn kiên vững một
khi đã quyết định. Ngài đã mặc áo nhặm để dễ dàng điều khiển ngũ quan và thân
xác. Ngày 25 tháng 7 kết thúc kỳ tĩnh tâm 30 ngày, ngài bắt đầu đi bộ trong
tình trạng giao động vì tận đáy lòng thì
can đảm, nhưng trong cảm giác thì buồn sầu rã rời” (s. 45).
Chúng ta hãy cùng phân tích đoạn kể trên:
+ “bỗng nhiên trong ngài bùng lên tình yêu
điên dại, đầy khôn ngoan của Thập giá, và những thực hành khó làm nhất trong việc
phó thác hoàn toàn cho Đấng Quan Phòng” (s. 45a). Đây là một dạng an ủi thiêng liêng như thánh I-nhã mô tả: “khi linh hồn phát khởi một thúc đẩy nội
tâm, khiến linh hồn bừng cháy lửa kính mến Đấng Tạo Hóa và Chúa mình” (LT 316- Quy tắc III).
+ “ngài thực sự thích thú […] đem biếu hết những gì còn sót lại
trong chuyến hành hương, để trải nghiệm và dùng tình yêu nâng đỡ những người
hoàn toàn thiếu thốn mọi thứ trong cuộc sống” (s. 45b). Đây
chính là khoảnh khắc của ân sủng, là lúc những tín hữu thành tâm cảm thấy tâm hồn
mình được cất cao, cháy bừng lòng mến Chúa yêu người.
+ Tuy nhiên, ma quỷ vẫn không để yên cho ngài, rõ
ràng là “trước ngày ra đi ngài cảm thấy
dâng lên một nỗi ghê tởm dự định đó,
dựa trên một loạt các lý lẽ rất hiển nhiên cũng như dựa trên nỗi sợ hãi tự nhiên về các tai họa có
thể gặp”(s. 45c).
Một lần nữa, có thể thấy nơi đây, cơn sầu khổ thiêng liêng dường như có sức
mạnh áp đảo cả quá khứ và tương lai, liên quan đến những nỗ lực yêu mến và phụng
sự Thiên Chúa của ngài Lambert. Vì thế, cần phải có một cặp mắt thật tỉnh táo
nhìn vào những mưu mô dối gạt của kẻ thù trong cơn sầu khổ, thì mới có thể điểm
mặt cũng như tránh được những lý lẽ giả tạo do kẻ thù bày ra [46].
Thánh I-nhã dạy phải làm gì
khi lâm cơn sầu khổ?
-“Trong thời gian sầu khổ, đừng bao
giờ thay đổi, nhưng hãy cương quyết bền vững trong những quyết định và dốc lòng
đã có trước khi bị sầu khổ, hoặc những quyết định đã có khi được an ủi trước
đây” (LT 318- Quy tắc V).
Sự khôn ngoan trong lời khuyên trên của Thánh I-nhã cũng được ngài Lambert
áp dụng khi phản ứng ngược lại với cám dỗ:“ngài
vẫn kiên vững một khi đã quyết định. Ngài đã mặc áo nhặm để dễ dàng điều khiển
ngũ quan và thân xác” (s. 45d).
Cuộc chiến đấu thiêng liêng này vẫn còn tiếp diễn cho đến hết 30 ngày tĩnh
tâm: “Ngài bắt đầu đi bộ trong tình trạng
giao động, vì tận đáy lòng thì can đảm,
nhưng trong cảm giác thì buồn sầu rã rời”
(s. 45e).
Có thể thấy rằng sự bình an của an ủi không phải là thứ bình an thế gian
ban tặng (x. Ga 14,27), không chỉ đơn thuần là tình trạng không có xung đột. Rõ
ràng là sự “can đảm” hoạt động ngay
giữa những nỗi “buồn sầu rã rời” chứ
không loại trừ chúng. Sự can đảm của an ủi là một sự tự tin được bảo đảm rằng
Thiên Chúa sẽ quan phòng cho những ai thi hành công việc của Người. Bình an của
Chúa Kitô hoạt động thông qua những xáo trộn chứ không phải là bất chấp những
xáo trộn[47].
Cứ thế, “càng đi gần tới Rennes lòng
can đảm càng gia tăng với ước muốn
thi hành tất cả những gì Chúa đã ra lệnh cho ngài. Tuy nhiên khi đến nơi, nỗi buồn lại tăng lên trong lòng ngài.
Khi nằm trằn trọc trong căn chòi hoang, ngài chợt tỉnh giấc giữa đêm khuya, hoảng hốt sợ hãi vì nghĩ nếu mình chết vào
lúc này thì chẳng được sự giúp đỡ cả tinh thần lẫn thể lý nào,
và đáng sợ hơn nữa là có được cứu rỗi hay
không. Ngài đã quá lo sợ đến mức nếu Chúa không giải thoát ngài khỏi chước
ma quỷ cám dỗ, ngài có nguy cơ rơi vào nỗi tuyệt vọng” (x. s. 46).
Những lúc cám dỗ của thần dữ đi kèm những cơn sầu khổ thiêng liêng cứ ngày
một gia tăng thì sự chiến đấu làm ngược lại của ngài Lambert càng trở nên mạnh
mẽ và quyết đoán, như ta đọc đoạn tiếp theo: “Trong tình trạng đó, ngài nhớ lại mình đang vâng theo thánh ý
Chúa, và đã phó thác cho Thiên ý để vượt qua tất cả những thử thách Chúa gởi
đến. Nhờ đó ngài tìm lại được không
những sự bình an mà còn tràn đầy vui mừng với niềm hy vọng là cuối cùng, con đường phó
thác sẽ dẫn ngài đến sự kết hiệp hoàn toàn, điều mà những nhà tu đức gọi là sự
tan biến linh hồn trong Chúa, và Thiên Chúa ngự trị trong tâm hồn” (s. 47).
Điểm chính yếu trong kinh nghiệm của ngài Lambert vẫn luôn là để tâm xem
xét thật kỹ những chuyển biến xảy ra trong nội tâm của mình để có được một cảm
thức rõ ràng và sáng suốt. Hiểu được nguyên nhân của cơn sầu khổ, “điểm mặt” nó
và nỗ lực để vượt thắng (x. LT 319- Quy tắc VI).
Như một người ước ao muốn tiến hơn trên đường hoàn thiện, ngài Lambert nhận
ra: “Để thi hành ý Chúa muốn ngài trở thành người nghèo khổ, bước đầu tiên là
ngài cắt tóc thật ngắn. Việc này gây
khổ tâm cho ngài hơn mức người ta tưởng, bởi vì ngài luôn cho rằng với kiểu
dáng đó, ngài mang vẻ ngớ ngẩn quê mùa,
việc này trước kia ngài rất khó chịu đựng nổi. Sau đó ngài khoác thêm bên ngoài y phục thường ngày một áo bằng vải thô mà ngài đã cố tình tìm mua cho bằng được.
Ngài vận quần cũng bằng vải thô như áo.
Và để kèm theo, ngài đội một chiếc mũ cũ
kỹ, mang giày tồi tàn, thắt chặt lưng bằng sợi giây thừng (s. 48).
Tất cả những gì ngài Lambert làm với lòng đạo đức cùng với tất cả các trường
hợp bị hạ nhục đi kèm theo như bị mọi người cười nhạo vì y phục kỳ lạ của ngài;
bị nghi ngờ là kẻ xấu… (x. s. 49-50). Ngài nghĩ như vậy là làm theo thánh ý
Chúa, tuy nhiên, sau khi kết thúc tuần cửu nhật bên mộ tu sĩ Jean de
Saint-Samson mà ngài có ước muốn nóng bỏng là mong được tiến bộ trên con đường
nội tâm theo bước chân của vị tu sĩ này, ngài đã nhận được “những hiểu biết sâu sắc thông tuệ và những nét điểm xuyến cực kỳ sống
động về mẫu gương khó nghèo và tự hủy của Con Thiên Chúa” (*) .
Vì thế, sau khi kết thúc thời gian sống ở Rennes, ngài đã “thay đổi nội tâm bằng một cuộc biến đổi thiêng liêng”, đó là trở
nên như Chúa Giêsu khiêm hạ thì tốt hơn là thay đổi bộ dạng bề
ngoài, cải trang thành một người nghèo như ngài đã làm (x. s. 52).
Cuối cùng, ngài Lambert đã có được một sự trưởng thành thiêng liêng rõ rệt
trong ý thức về việc sống khó nghèo như thế nào thì “tốt hơn”, nghĩa là nên giống Chúa hơn. Hướng đến điều hơn nữa -“magis”- cũng là một đặc nét trong linh đạo
I-nhã. “Magis” là một năng động tình
yêu, tạo nên sự khao khát mãnh liệt và khiến người ta muốn sống một cuộc sống
càng lúc càng thuộc về Chúa nhiều hơn: biết Chúa hơn, yêu Chúa hơn và theo Chúa
sâu đậm hơn[48].
Sau khi hoàn tất tuần cửu nhật bên mộ tu sĩ Jean de Saint-Samson, người mà
ngài luôn biết ơn một cách sâu xa, ngài đi bộ trở về Caen, khoác trên mình bộ y
phục kỳ dị, không quan tâm đến danh tiếng lẫn sức lực mình, chấp nhận sự sỉ nhục
như cách làm đẹp lòng Chúa hơn cả. Ngài đi qua thành phố Avranches và
Coutances, với quyết tâm là từ nay sẽ bước trên con đường tự hạ một cách can đảm
hơn, nhất định không lùi bước, không vị nể bất kỳ ai (x. s. 57).
Kết quả là ngài đã nhận được nhiều ơn an ủi thiêng liêng trong chuyến trở về
này: “Đức Trinh nữ là Nữ vương Thiên quốc
đã đánh dấu sự hài lòng bằng cách ban cho ngài những an ủi nội tâm khi ngài tới
gần thành phố Caen. Con tim ngài như tan
chảy ra vì được an ủi và được yêu mến, khi ngài nhận ra các ơn lành mà người
Mẹ các tội nhân ban cho kẻ có niềm khao khát muốn nên trọn lành. Tình yêu dành
cho Đức Mẹ cháy bùng lên đến mức
ngài đoan hứa nhiều lần là sẵn sàng chịu đựng mọi đau khổ và dám làm mọi việc để tôn vinh Đức Mẹ. Có
thể nói được là suốt đời ngài đã tuyệt đối trung thành với lời hứa đó, cả khi ở
Pháp lẫn khi ở miền Đông Ấn. Vì ngài nhận ra rằng Chúa Giêsu đã soi sáng cho
ngài biết: sự tôn sùng kính mến Mẹ Người là nền tảng mọi ân sủng ngài sẽ nhận.
Đến nỗi không cần phải ngạc nhiên khi biết bao lần ngài đã cầu xin- qua nhiều sự
hiệp thông cầu nguyện và tuần cửu nhật- sự gia tăng trong tâm hồn ngài niềm an ủi
dịu dàng của Đức Mẹ để ngài có thể thông truyền điều này đến tận cùng trái đất”(*)
(s. 58).
+ “Con tim ngài như tan chảy ra vì được an ủi và được yêu mến”. Theo Thánh I-nhã một trong những dấu chứng
mạnh mẽ nhất của an ủi là cảm nhận một cách mãnh liệt, sâu xa và kéo dài sự hiện
diện của Chúa[49].
+ Tuy nhiên, sự thân mật, cảm nghiệm được Thiên Chúa
yêu thương này không giữ ngài ở lại trong riêng tư, mà khi trở lại với cuộc sống
thường nhật của mình, ngài nhận ra và tôn sùng tình yêu Chúa dành cho ngài,
ngay trong mọi vật, mọi người và mọi biến cố: “Tình yêu dành cho Đức Mẹ cháy bùng lên đến mức ngài đoan hứa nhiều lần
là ngài sẵn sàng chịu đựng mọi đau khổ và dám làm mọi việc để tôn vinh Đức Mẹ”.
Tháng 9 năm 1655, nhân dịp Đức Giám mục Giáo phận Bayeux tới Caen, ngài
Lambert xin gia nhập hàng giáo sĩ bằng nghi thức Cắt tóc và bốn chức nhỏ. Đó là
ngày ngài “cảm nhận ân sủng đến mức nước mắt cứ trào dâng, và run lên khi tự hiến cho Thiên Chúa hết lòng bằng một động
tác tình yêu vừa dịu dàng vừa nồng cháy” (s. 63).
Loại an ủi thiêng liêng thầy Lambert gặp ở đây chính là điều Thánh I-nhã
miêu tả “linh hồn chảy nước mắt giục lòng
mến Chúa” (LT 316b). Là nước
mắt diễn tả một thúc đẩy tâm hồn hướng về Thiên Chúa trong tình yêu[50]
“khi tự hiến cho Thiên Chúa hết lòng bằng
một động tác tình yêu vừa dịu dàng vừa nồng cháy” (s. 63).
Thánh I-nhã đã liệt kê ba thúc đẩy hướng về Thiên Chúa khiến cho phải rơi
nước mắt: hai thúc đẩy cụ thể là “bởi sự
đau đớn vì tội lỗi mình” hoặc “vì sự
thương khó của Đức Kitô Chúa chúng ta”. Và một thúc đẩy khác có tính bao
quát hơn đó là “trực tiếp hướng về việc
phụng sự và ca ngợi Chúa”(LT 316b)[51] – đây chính là trường hợp của ngài Lambert vào lúc này.
2) Cuộc tĩnh tâm 40 ngày chuẩn bị lãnh nhận các chức lớn[52]
Trong cuộc tĩnh tâm 40 ngày tiếp theo của thầy Lambert tại chủng viện của
cha thánh Jean Eudes thuộc thành phố Coutances, chúng ta sẽ quan sát những cảm
nhận thiêng liêng sau: “Ngài có những cái
nhìn cao thượng về phẩm vị siêu việt của thiên chức linh mục và về những chuẩn
bị quan trọng mà chức vị ấy đòi hỏi, trong đó ngài cảm thấy chính yếu nhất
là tinh thần hy sinh, nghĩa là ý chí
tự nguyện hủy mình ra không, để kết hiệp với Chúa Giêsu Kitô hiến tế trên bàn
thờ, hầu thiết lập vinh quang Thiên Chúa nơi mọi tâm hồn. Có vẻ như Đấng Cứu
Thế đã ban cho ngài một điều gì đó về sự tự hủy bí nhiệm kia, chính điều đó đã
khắc ghi nơi ngài một khát khao cháy bỏng,
với một tình yêu dịu ngọt dành cho Thánh Giá trong suốt kỳ tĩnh tâm này”(*) (s. 66).
+ Cảm thức về niềm an ủi thiêng liêng trên tập trung
vào niềm vui nội tâm. Một niềm vui có sức “mời
gọi và lôi kéo tâm hồn đến những sự trên trời” (LT 316c). Những
sự trên trời ấy chính là ơn gọi cá nhân Chúa dành cho ngài: là “phẩm vị siêu việt của thiên chức linh mục”,
là “tinh thần hy sinh”, là “ý chí tự nguyện huỷ mình ra không, để kết
hiệp với Chúa Giêsu Kitô hiến tế trên bàn thờ, hầu thiết lập vinh quang Thiên
Chúa nơi mọi tâm hồn”, là lòng “khát
khao cháy bỏng, tình yêu dịu ngọt dành cho Thánh Giá”. Trong lúc này, dường
như chẳng có thứ gì làm say mê ngài cho bằng việc cầu nguyện và suy nghĩ về niềm
an ủi thiêng liêng mà ngài vừa khám phá.
+ Niềm an ủi thiêng liêng này kéo dài cho đến tận
ngày ngài chịu chức phụ phó tế: “Nỗi sung
sướng nhận chức thánh đã xoá tan cơn nhọc mệt” (s. 67) . Vào hôm trước ngày chịu chức, ngài đã nhận ơn thông biết cần phải
giữ bổn phận thứ nhất (là đức khiết tịnh) đến mức độ suốt đời phải xa tránh cả
những thú vui vô hại nhất và giữ bổn phận thứ hai (là đọc kinh thần vụ) đến mức
độ chỉ phục vụ Thiên Chúa chứ không pha trộn một chút lợi lộc nhân loại nào (x. s. 67).
+ Cùng lúc đó, thầy Lambert nhận thấy có một thứ cảm
giác bất ổn xảy ra trong tâm hồn
mình, đó chính là “nỗi run sợ” khi
nghĩ đến tính cao cả của chức thánh (x. s. 67); và nó càng trở nên mạnh mẽ hơn
trong ngày ngài chịu chức phó tế: “Nỗi
run sợ ngài đã trải qua trong lần chịu chức vừa qua lại trỗi lên, kéo dài hơn, không cách gì ngăn chặn được” (s.
68a). Ngài Lambert đã để ý đến nét đặc trưng về khía cạnh cảm xúc của
kinh nghiệm sầu khổ này, lẫn những ý nghĩ phát sinh từ nó (LT 317, 318). Ngài
cũng nhận ra những cảm giác rối loạn thiêng liêng đó đã bị xóa tan khi vị Giám
mục chủ phong thốt lên câu: “Hãy nhận lấy
Thánh Thần”, thì lòng “ngài bỗng cảm
thấy bình an hoàn toàn” (x s. 68b).
+ Thánh I-nhã gọi là An ủi:“khi linh hồn được nghỉ ngơi và an bình trong Đấng Tạo Hóa và
Chúa mình” (LT 316). Tuy nhiên, bình an và tĩnh lặng đi kèm với ơn an ủi
không thể hiểu là không có vấn đề gì, không có những cảm xúc tiêu cực, vì bề
ngoài ngài Lambert có thể rất sợ về thiên chức linh mục, nhưng ngài vẫn có cảm
nhận sâu xa rằng Thiên Chúa đang hoạt động ngang qua cả những khó khăn trong
các quyết định: “để hoàn tất ơn sủng đi kèm
theo chức vụ phó tế, sau khi rước lễ, ngài trông cậy vào Đức Kitô và Chúa Thánh
Thần đang ngự trong lòng ngài sẽ từ từ biến ngài thành một vị tử đạo vì tình
yêu. Niềm trông cậy này đem đến cho ngài tràn đầy an ủi, và ngài tin tưởng chờ
đợi nó trở thành hiện thực”(s. 68c).
+ Và khi cơn sầu khổ đã thực sự biến mất, niềm an ủi
thiêng liêng lại trở về với ngài. Hơn nữa, trong cảm giác sốt sắng do ơn an ủi
thiêng liêng kéo dài đến ngày chịu chức Linh mục[53]
ngài cảm nhận được một sự hòa hợp với ý Chúa về chức thánh được lãnh nhận: “Trong lễ truyền chức, ngài cảm nghiệm được
một sự bình an sâu xa. Trước lúc
cùng Đức Giám mục đọc lời truyền phép, ngài thấy trong lòng dâng lên nỗi
thúc bách hiến dâng của lễ đầu tiên này hoà theo ý nguyện nhiều ngày trước,
đó là trong 300 thánh lễ ngài xin trước đó, có nghĩa là để cảm tạ Thiên Chúa về
vinh dự nội tâm mà ngài vĩnh viễn được trả nghĩa cho chính Chúa và để tha thiết cầu nguyện cho vinh quang Thiên
Chúa được bày tỏ ra bên ngoài, trên khắp trái đất” (*) (s.
69a).
Có thể nói rằng, lúc này cha Lambert đang say đắm với lòng biết ơn Thiên
Chúa. Lòng biết ơn sâu đậm “thúc bách”
ngài dâng hiến trở lại tất cả những quà tặng đã lãnh nhận cho Đấng Trao Ban, đồng
thời chỉ một lòng khát khao mãnh liệt là sẽ dâng hiến đời mình để ca tụng và phụng
sự Chúa. Tâm tình đó được bộc lộ ra trong lời nguyện ngài thì thầm trước khi đọc
lời truyền phép: “Ôi Giê su lòng con yêu
mến, con sắp sửa sinh ra Chúa bằng quyền năng thần diệu Chúa vừa phú ban cho
con, xin chính Chúa cũng sinh ra trong con người con, để luôn mãi ở lại trong
con và ước gì, từ rày về sau, trong mọi lúc, Chúa biến con thành một của lễ hiến
sinh cho Chúa bằng chính tình yêu đã khiến Chúa chẳng ngừng tế hiến vì con”
(*) (s. 69b).
Theo Thánh I-nhã: “nếu một linh hồn thật sự chạm đến những ao ước thầm kín
nhất, nó sẽ thấy chính mình không còn muốn gì khác nữa ngoài việc ca tụng, tôn thờ và phụng sự Chúa – không còn muốn gì hơn là làm vinh danh Thiên
Chúa trong cuộc sống của mình. Đó là
ước ao sâu xa hơn hết, và là nguồn mạch sau cùng của mọi ao ước khác. Chỉ
khi nào người ta có thể gọi được Tên
cái ước ao sâu xa nhất ấy, thì họ mới sẵn sàng để từ bỏ những gì không làm vinh
danh Chúa và khi đó mới sẵn sàng đảm nhận bất cứ điều gì làm cho Thiên Chúa được
vinh danh hơn.
Ngay cả những điều mà con người, xét về mặt lý luận mà ai cũng phấn đấu, đó
là sức khỏe, tiền bạc, danh vọng, trường thọ. Những điều có vẻ như là những yếu
tố thiết yếu của cuộc sống, nhưng cũng không còn quan trọng cho bằng vinh quang
Chúa. Để Chúa được vinh danh hơn, linh hồn sẽ sẵn lòng làm bất cứ điều gì, cũng
như sẵn lòng bỏ hết mọi sự”[54].
Phải chăng đích điểm của hành trình thiêng liêng nơi cha Lambert từ đầu cho
đến ngày chịu chức thánh chính là ngài đã gọi được Tên loại ước ao sâu xa
nhất ấy: “không còn muốn gì hơn là làm
vinh danh Thiên Chúa trong cuộc sống của mình”, chính là khi “ngài
tha thiết cầu nguyện cho vinh quang Thiên Chúa được bày tỏ ra bên ngoài, trên
khắp trái đất” (s. 69a).
Qua những mẫu chuyện của Đức cha Lambert vừa được phân tích trên, chúng ta
nhận ra: theo cách thức thông thường, việc phân biệt thần loại nói lên cốt lõi
của việc phân định. Điều này hệ tại ở việc nhận biết nguồn gốc của những tác động
của các thần (Thiên Chúa, ma quỷ, thế gian, xác thịt) đang tác động trên suy
nghĩ, tưởng tượng, cảm xúc, khuynh hướng, ham muốn, cảm giác của bản thân liên
quan đến một thực tại bên ngoài hay trong nội tâm; từ đó cá nhân nhận ra được
tiếng nói chân thật của Thiên Chúa, đối lại với những xu hướng ươn hèn của xác
thịt, với sự phỉnh gạt của thế gian, và với sự tinh ranh của ma quỷ[55].
Trong những chọn lựa thông thường của ngày sống cũng như trong những tình
huống đặc biệt, tiếng gọi của Thiên Chúa luôn xuất hiện từ những rung động bên
trong con tim của mỗi người. Vì thế, khi tâm hồn chỉ khao khát một điều là học
được cách phân biệt thật chính xác những rung động nội tâm đó, thì mới có thể
nhận ra Tiếng Gọi đang kêu mời trong lòng và can đảm đáp trả. Phân định quả là
một tiến trình mà chúng ta phải học hỏi và áp dụng, là một kỹ năng cần vun xới
từng ngày. Tuy nhiên, chúng ta cũng không được quên rằng đây là một ân huệ
chúng ta phải nài xin Thiên Chúa như Đức Thánh Cha Phanxicô huấn dụ: “Phân định là một ân huệ phải nài xin. Nếu
chúng ta xin Chúa Thánh Thần ơn huệ ấy với sự tin tưởng, và nếu chúng ta đồng
thời nỗ lực phát triển ơn ấy nhờ cầu nguyện, suy nghĩ, đọc sách và lắng nghe những
lời khuyên tốt lành, thì chắc chắn chúng ta sẽ lớn lên trong khả năng thiêng
liêng này”[56].
Những đoạn kế tiếp kể về cha Lambert sau khi chịu chức Linh mục là một minh
chứng rõ ràng hơn về tiến trình phân định và chọn lựa sát với truyền thống linh
đạo I-nhã. Chúng ta sẽ tập trung vào hai biến cố lớn: quyết định làm giám đốc
Trung Tâm Xã hội Rouen hay đi Paris học thần học và biến cố tiếp theo, chọn lựa
giữa tiếng gọi đi truyền giáo vùng Đông Ấn hay ở lại làm giám đốc Trung tâm xã
hội Rouen.
Trước khi tiếp tục phân tích các sự kiện trên, chúng ta hãy cùng tìm hiểu
lý thuyết về cách thức lựa chọn theo thánh ý Chúa, rút ra từ kinh nghiệm của
Thánh I-nhã.
3. Tiến
trình chon lựa dựa trên truyền thống linh đạo I-nhã
3.1.
Cách thức chọn lựa theo thánh ý Chúa[57]
Ba
Thì để Lựa Chọn Kỹ Càng và Đúng Đắn
Thì 1. Thì thứ nhất là khi Thiên Chúa đánh động và lôi kéo ý muốn rõ ràng đến nỗi
không hồ nghi và không thể hồ nghi, khiến linh hồn công chính tuân theo điều đã
được tỏ lộ. Thánh Phaolô và thánh Mátthêu đã làm như thế khi các ngài bước theo
Đức Giêsu.
Thì 2. Thì thứ hai là khi nhận được đủ ánh sáng và sự hiểu biết bởi kinh nghiệm về
những an ủi và sầu khổ thiêng liêng, cũng như bởi kinh nghiệm về việc phân định
thần lành và thần dữ khác nhau.
Thì 3. Thì thứ ba là khi yên tĩnh, sáng suốt, suy
xét con người sinh ra để làm gì, ấy là để ngợi khen Thiên Chúa và cứu rỗi linh
hồn mình. Cùng với lòng ước ao ấy, lựa chọn một nếp sống hay một bậc sống trong
lòng Giáo Hội, để giúp mình phụng sự Chúa và cứu rỗi linh hồn mình.
Tôi nói, “yên tĩnh” nghĩa là khi linh hồn không bị xao động bởi thần lành
hay thần dữ, và có thể sử dụng những khả năng, kinh nghiệm hiểu biết và ước muốn
của mình một cách tự do và tĩnh tại.
Nếu trong thì thứ nhất hay thứ hai mình chưa được đủ ánh sáng để lựa chọn,
thì, sau đây là hai cách để lựa chọn theo thì thứ ba.
3.2. Cách thứ nhất để chọn lựa
Điểm 1. Trước tiên, xác định rõ ràng điều gì là đối tượng lựa chọn của tôi, chẳng
hạn một chức vụ hay bổng lộc nên tiếp nhận hay khước từ, hoặc bất kỳ điều gì
khác mà sự lựa chọn có thể thay đổi được.
Điểm 2. Nhớ lại cứu cánh là mục tiêu, tôi được dựng nên là để ngợi khen Thiên Chúa
và cứu rỗi linh hồn mình. Kế tiếp xin ơn được bình tâm, không bị một quyến luyến lệch lạc nào chi phối, tức là
không thiên về và cũng không thèm muốn tiếp nhận hơn là khước từ hoặc khước từ
hơn là tiếp nhận điều đã được đề ra; nhưng tôi cần giữ mình ở giữa như kim
trong bàn cân, chỉ nghiêng theo đàng nào tôi “cảm thấy” sẽ làm vinh danh, ngợi
khen Chúa và cứu rỗi linh hồn tôi hơn.
Điểm 3. Nài xin Thiên Chúa đoái thương, đánh động ý muốn tôi và gợi lên trong tâm
hồn những gì tôi phải làm đối với điều đã được đề ra, ngõ hầu ngợi khen và làm
vinh danh Thiên Chúa; bằng cách suy xét sáng suốt, đúng đắn để lựa chọn những
gì thích hợp với ý cực thánh và nhân lành của Người.
Điểm 4. Sáng suốt suy xét những ích lợi hay hoa trái, cũng như những bất lợi và
nguy hiểm đối với vinh danh Thiên Chúa và phần rỗi linh hồn tôi, khi tiếp nhận
chức vụ hay bổng lộc đó. Kế tiếp, suy xét những ích lợi hay hoa trái, cũng như
những bất lợi và nguy hiểm kèm theo khi khước từ điều ấy.
Điểm 5. Sau khi đã suy nghĩ và cân nhắc điều đã được đề ra dưới mọi khía cạnh, và
không để bất cứ cảm xúc trần tục nào chi phối, coi xem lý trí nghiêng về phía
nào hơn và chỉ thuận theo lý trí chứ không theo tình cảm mà quyết định.
Điểm 6. Khi lựa chọn hay quyết định xong, mau mắn cầu nguyện trước mặt Thiên
Chúa, dâng lên lựa chọn của mình và xin Ngài đoái nhận cùng xác chuẩn, nếu điều
này giúp phụng sự và ngợi khen và làm vinh danh Ngài hơn.
3.3. Cách thứ hai để chọn lựa
Quy tắc 1. Mở lòng cho ơn soi sáng để chính tình yêu Thiên
Chúa trở thành động lực chính thúc đẩy tôi lựa chọn. Vì thế mọi tâm tư, tình cảm
đối với điều tôi chọn lựa đều xuất phát từ lòng yêu mến Đấng Tạo Hóa và Chúa
mình.
Quy tắc 2. Tưởng tượng về một người mà tôi chưa từng gặp gỡ
hay quen biết, và ước ao mọi sự hoàn thiện cho họ, suy xét điều tôi sẽ khuyên họ
lựa chọn để làm sáng danh Thiên Chúa và hoàn thiện linh hồn họ hơn. Và chính
tôi cũng làm như vậy, tức là áp dụng cho tôi những gì tôi đề nghị cho họ.
Quy tắc 3. Hình dung tôi đang trong giờ lâm tử, khi ấy tôi
mong ước đã lựa chọn điều gì và như thế nào trong giây phút hiện tại này. Trong
ánh sáng đó, bây giờ, tôi quyết định như vậy.
Quy tắc 4. Hình dung xem tình trạng của tôi trong ngày phán
xét, nghĩ xem lúc ấy lẽ ra tôi muốn mình đã định đoạt về công việc hiện tại như
thế nào; những gì mà lúc ấy tôi mong ước đã tuân theo thì hãy áp dụng nó cho
giây phút hiện tại. Làm như vậy, lúc đó, tôi sẽ được bình an, vui mừng và hạnh
phúc trọn vẹn.
* Ghi chú. Một khi đã hiểu thấu và lưu tâm đến tất cả những quy tắc trên, điều gì mưu
ích cho ơn cứu rỗi và sự bình an đời đời của tôi, tôi sẽ lựa chọn và dâng hiến
sự lựa chọn của tôi cho Thiên Chúa, theo như điểm thứ 6 trong cách thứ nhất
để lựa chọn.
4. Hai
biến cố: từ phân định đến quyết định
4.1. Biến
cố thứ nhất: Giám đốc Trung tâm xã hội Rouen.
4.1.1. Đối tượng của việc
phân định
Sau khi chịu chức Linh mục (27.12.1655), cha Lambert ao ước đi Paris một
năm để học thần học vì “Ngài cho rằng
Chúa Giêsu yêu cầu ngài để dành một năm hoàn toàn không vướng bận đến công việc
tha nhân để chuyên cần bắt chước cuộc sống ẩn dật của Chúa suốt 30 năm trên trần
gian, cũng như cuộc sống ẩn mình trong bí tích Thánh Thể cho đến ngày tận thế.
Tuy nhiên ngài cũng biết một yêu cầu tĩnh tâm như thế không thể nào so sánh được
với việc thực hiện ý định nung nấu từ lâu là đi học ở Paris. Ngài còn hy vọng ở
đó ngài sẽ đạt được những tiến bộ lớn về kiến thức mà không hề đánh mất sự kết
hợp với Thiên Chúa” (s. 77).
Giấc mơ của cha Lambert đang nồng nhiệt như thế thì bỗng chốc, một điều mới
mẻ bất ngờ xảy đến với ngài: “Khi tới
Caen, ngài nhận được một số lá thư của nhiều người đạo đức từ Rouen gửi tới. Họ
đã nhắm mời ông Aubert de la Haye và ngài cai quản Trung tâm Xã hội tại đó,
thay thế ông Amiens vừa qua đời. Ông Aubert de la Haye chỉ chấp nhận nếu
ngài Lambert chấp nhận. Không chỉ Ủy ban Trung tâm Xã hội mà cả Đức Tổng Giám mục,
Chủ tịch và toàn thể Nghị viện Rouen, toàn bộ Toà Thượng thẩm, toàn bộ thành phố
Rouen và tất cả những người ngay lành đều mong ước ngài nắm giữ chức vụ giám đốc
Trung tâm Xã hội” (s.
79).
Điều gì sẽ xảy ra khi mà “đề nghị bất
ngờ trên đã tạo nên một cuộc chiến trong tâm hồn ngài” (s. 80). Đâu là điều
Thiên Chúa muốn: đi Paris học thần học hay chấp nhận lời mời làm Giám đốc Trung
tâm Xã hội Rouen?
4.1.2. Tiến trình phân định
- Phân định lần 1 (s. 80)
Chúng ta hãy theo dõi diễn tiến về những suy nghĩ của cha Lambert trong đoạn
sau:
+ “Thoạt tiên khi thăm dò bản
thân, ngài cho rằng theo ý Chúa, tốt hơn nên sống đời ẩn dật như Chúa và lên
Paris học như một sinh viên bình thường không ai biết, còn hơn là nhận cai quản
quá sớm một Trung tâm quan trọng như thế trong khi mình chưa xứng đáng, tuy là
tiếng tăm đó không hề làm ngài thêm tự phụ” (s. 80a).
+ “Ngài còn xét rằng: theo tinh
thần Phúc Âm thì khi từ chối đề nghị đó tức là có cơ hội đưa mình ra cho những
người đạo đức nhất, khôn ngoan nhất cùng chê trách. Những người này sẽ không
bao giờ đồng ý cho ngài từ chối một chức vụ thánh thiện và đầy tính bác ái như
thế, để đi học đại học ở Paris, vào tuổi tác như ngài, mà không quan tâm đến việc
bao nhân vật quan trọng nay đã thống nhất lựa chọn ngài. Việc họ hợp lực ủng hộ
ngài như thế có thể là dấu chỉ Chúa kêu gọi lắm chứ” (s. 80b).
+ “Có thể để thử mức độ chân thật
của tâm hồn ngài, hoặc có thể vì bạn bè ngài lúc đó chưa có ý kiến nào sáng suốt
hơn, người ta khuyên ngài nên theo khuynh hướng từ chối vị trí vinh dự đó và
bình tâm chờ đợi mọi người chê trách” (s. 80c).
+ Kết cục là “ngài
can đảm từ chối” đề nghị làm Giám đốc Trung tâm Xã hội Rouen (s. 80d).
Có thể nói đây là một loại phân định
khôn ngoan, nghĩa là cha Lambert đã vận dụng sự sắc sảo của trí khôn, dựa
vào những lý lẽ (thuận-nghịch) của bản thân: “ngài cho rằng…” và kinh nghiệm từng trải : “ngài
còn xét rằng…” và dựa vào lời khuyên của các vị hướng dẫn đạo đức, khôn ngoan: “người ta khuyên…” để đi đến quyết định
theo những tiêu chuẩn nhân loại[58].
Hệ quả là ngài bị rơi vào cơn sầu khổ thiêng liêng: “…nhưng
lại rơi ngay vào nỗi buồn sâu đậm, một
phần bởi sự chán nản tự nhiên khi mất
đi một vinh dự không cần đi tìm mà có được và một phần khác bởi nỗi sợ sệt mang tính đạo đức là chưa đủ
bác ái trước mặt Chúa vì muốn quá tỏ ra siêu thoát trước mọi người, và e rằng
có thể vì thầm kín ưa thích cái danh tiếng khiêm tốn bằng cách thực hành một việc
hạ mình ai cũng thấy như thế”(*) (s. 80e).
Những loạt từ mô tả: “nỗi buồn sâu đậm, sự chán nản
tự nhiên, nỗi sợ sệt mang tính đạo đức…” là những dấu chỉ cho ta nhận biết sự lựa chọn này
có một sự bất tương hợp với ý Chúa. Sự lựa chọn của cha Lambert thoạt trông có
vẻ rất tốt đẹp và làm cho ngài có những cảm xúc thoải mái ban đầu: “tốt
hơn nên sống đời ẩn dật …còn hơn là nhận cai quản quá sớm một Trung tâm quan trọng
như thế”; có thể giúp ngài che giấu được mọi sự, tránh né những
xung đột, hoặc là tránh được những tình huống không ưng ý và rắc rối, nhưng rõ
ràng là có một sự xáo trộn trong thâm tâm ngài khi ngài quyết định sẽ đi theo
hướng đó. Vì thế, ngài phải tiếp tục phân định lại.
- Phân định lần hai (s. 81-82)
Hãy tiếp tục quan sát những gì xảy ra trong câu chuyện: “Cân
nhắc sự việc đến lần thứ hai là quá đủ. Nhưng sau khi làm tuần cửu nhật ở
Notre-Dame de la Délivrande cùng với ba nhân vật sáng suốt khác hợp ý cầu nguyện,
người ta lại khuyên ngài chỉ nên tự hoàn thiện trong cuộc sống ẩn dật, và lên
Paris ngay sau lễ Phục sinh để chuyên tâm học hành nhiều điều cần thiết, hầu
sau này giúp đỡ đồng loại cách vững vàng, nhất là khi ngài đã có chức thánh” (s. 81).
Khác với lần trước, để việc phân định được cẩn thận hơn, cha Lambert đã gia
tăng việc cầu nguyện bằng cách“ làm tuần cửu nhật”; và nhờ đến sự hỗ trợ của “ba nhân vật sáng suốt” cùng suy xét những ích lợi và hoa trái khi ngài từ chối tiếp nhận chức vụ đó. Một lần nữa, dựa vào những lý lẽ và lời khuyên của họ là cha Lambert “nên tự hoàn thiện trong cuộc
sống ẩn dật, và lên Paris ngay sau lễ Phục sinh để chuyên tâm học hành nhiều điều
cần thiết, hầu sau này giúp đỡ đồng loại cách vững vàng, nhất là khi ngài đã có
chức thánh”. Vì thế, ngài vẫn theo hướng từ chối
lãnh nhận chức vụ Giám đốc Trung tâm từ thiện: “Ngài đã dồn mọi tư tưởng theo hướng đi
Paris học thần học, thì những người hướng dẫn ngài cảm
thấy yên tâm vì ngài đã vâng
theo hướng đó”. (s. 82a).
Như Thánh I-nhã, cha Lambert cũng có lúc muốn Thiên Chúa hành động đúng
theo những gì lòng ngài mong đợi, và điều này khiến ngài rơi vào tình trạng giằng
co nội tâm khi trong thực tế, những gì xảy đến với ngài lại trái ngược hẳn với
những gì ngài mong đợi. Điều quan trọng ở đây là những lúc cuộc đấu tranh nội
tâm đó xảy ra, cha Lambert có biết được nguyên nhân của chúng hay không? Có nỗ
lực làm cho ý muốn của mình trở nên phù hợp với thánh ý Thiên Chúa, để nhờ đó đạt
đến tình trạng bình an nội tâm phát sinh từ mối đồng cảm giữa ngài với Thiên
Chúa hay không? [59]
Quan sát diễn tiến để thấy rằng, sau khi phân định lần hai, cha Lambert tưởng
rằng khi tuân theo ý các vị hướng dẫn ngài như thế là chắc chắn nhưng sau đó
chính những vị này lại cảm thấy “nghi ngờ
chính ý kiến của mình” (s. 82b).
Những dấu chỉ này cho thấy cả hai lần phân định khôn ngoan trên không mang
lại kết quả. Việc quyết định một chọn lựa theo truyền thống linh đạo I-nhã phải
căn cứ trên kết quả của cả suy nghĩ
“trong đầu” lẫn cảm nhận “trong tim”. Tiến trình phân định này cần phải đạt
được sự hài hòa để cả “đầu” lẫn “tim” cùng thuận với nhau[60].
Vậy nên nếu sau khi quyết định hay chọn lựa mà thấy lòng không yên hoặc buồn
sầu thì chưa thể ngưng lại được mà phải lựa chọn lại hoặc chuyển sang phương
pháp phân định thiêng liêng: “Trong cuộc
phân định thiêng liêng, người phân định không chỉ vận dụng trí khôn ngay chính
và lành thánh, mà còn đặt mình dưới sự soi dẫn của Thánh Thần để truy tìm Thánh
Ý Chúa”. Chính vì thế, phân định thiêng liêng thì vượt trên sự phân định
khôn ngoan nhân loại như chúng ta vừa đề cập trên đây[61].
- Phân định lần ba: Phân định thiêng liêng.
Theo quyết định của các vị hướng dẫn, cha Lambert “cần phải thăm dò ý Chúa thêm, bằng cách đi hành hương 9 ngày tại nơi
cũ. Tất cả hợp lòng cầu nguyện theo ý hướng đó thật sốt sắng. Và sau khi đã thử thách ngài nhiều cách nhục
nhã mà ngài vẫn khiêm tốn đón nhận, họ kết luận là mặc dầu đã hai lần ngài từ
chối, ngài cần phải khiêm tốn bằng cách tỏ ra thay đổi và phải viết ra giấy là
ngài đã suy nghĩ cẩn thận và chấp nhận chức vụ giám đốc Trung tâm Xã hội thành
phố Rouen. Rồi họ viết cho ngài một quy luật ứng xử ngài phải giữ ở nơi Thiên
Chúa kêu gọi ngài đến” (s. 82c).
Phân tích đoạn trên chúng ta có thể nhận ra những yếu tố cơ bản trong tiến
trình phân định thiêng liêng:
a. Thời gian tĩnh lặng là cần
thiết: Cần phải ẩn vào một
nơi tĩnh lặng bên trong, bằng cách tách mình ra khỏi hoàn cảnh ồn ào bên ngoài
bởi vì cho dù là một người phân định dạn dày kinh nghiệm đi nữa, thì các thúc đẩy
của các thần loại vẫn hết sức tinh tế, không thể phát hiện nếu không dành thời
gian tĩnh lặng[62].
Đúng vậy, trong cuộc hành hương 9 ngày, mọi người cùng chìm sâu trong bầu khí cầu
nguyện: “hợp lòng cầu nguyện…thật sốt sắng”. Sự biện phân luôn luôn cần
phải xảy ra trong cầu nguyện. Trong Tông
Huấn Gaudete et Exsultate, khi nói về việc phân định thiêng liêng, Đức
Thánh Cha Phanxico khuyên dạy: “Chúa nói
với chúng ta bằng những cách thức khác nhau, lúc đang làm việc, qua tha nhân và
mọi lúc. Nhưng cách đơn giản ta không thể dập tắt sự thinh lặng của việc cầu nguyện lâu giờ, một việc cầu nguyện
giúp ta có thể nhận rõ hơn ngôn ngữ của
Thiên Chúa, có thể giải thích ý nghĩa đích thật của những hứng khởi mà ta
tin rằng đã nhận được, có thể xoa dịu những âu lo, và thấy được toàn bộ sự sống
của ta cách mới mẻ dưới ánh sáng của Ngài”[63].
b. Đọc lại những chuyển biến
nội tâm (an ủi, sầu khổ,
sợ hãi, giằng co, vui tươi, bình an) trong tiến trình phân định để nhận ra ý
Chúa, đó chính là việc lắng nghe trong biện phân: nghe Chúa và tha nhân và nghe
chính thực tại, một thực tại bao giờ cũng thách thức ta bằng những cách thức mới
mẻ[64].
Rõ ràng là các vị hướng dẫn đã cùng ngài phân tích các chuyển biến nội tâm để
giúp ngài tiến tới quyết định cuối cùng: “Và
sau khi đã thử thách ngài nhiều cách nhục nhã mà ngài vẫn khiêm tốn đón nhận, họ kết luận…”(s.
82c).
c. Tiến tới một quyết định: Quyết định lần này có vẻ dứt khoát hơn.
Đó là một quyết định thẳng thắn, toàn diện, hơn nữa lại được củng cố bằng một lời
cam kết: “Họ kết luận là mặc dầu đã hai lần
ngài từ chối, ngài cần phải khiêm tốn bằng cách tỏ ra thay đổi và phải viết ra giấy là ngài đã suy nghĩ cẩn thận
và chấp nhận chức vụ giám đốc Trung tâm Xã hội thành phố Rouen. Rồi họ viết cho
ngài một quy luật ứng xử ngài phải giữ
ở nơi Thiên Chúa kêu gọi ngài đến” (s. 82d).
Vì đây là một quyết định quan trọng và có ảnh hưởng lâu dài, nên việc đưa
ra một cam kết rằng sẽ quyết tâm thực hiện điều mà mình đã chọn lựa, “viết ra giấy”, sẽ ngăn chặn không cho
thần dữ có cơ hội để giành lại những gì mà ngài đã có được. Một lời hứa, một
cam kết, một lời thề như thế sẽ giúp cha Lambert được mạnh mẽ và kiên vững
trong những lúc yếu đuối và bị cám dỗ rút lui[65].
Bằng chứng là cha Lambert “hết sức cung kính đón nhận quyết định và tờ
quy luật ứng xử đó. Ngài gạt sang một bên những ý nghĩ trỗi lên trong ngài,
cho là khi vâng lời như thế tức bảo rằng những ánh sáng ngài có được chỉ thuần
tuý là ảo ảnh. Vả lại các vị hướng dẫn kia cũng có thể sai lầm. Họ đã thay đổi
ý kiến một lần, thì cũng còn có thể thay đổi lần nữa. Ngài biết rằng không nên
dành cho ngài việc soát xét những gì các vị ấy đã làm, mà chỉ là vâng theo những
điều ấy không chút phản tư nghĩ ngợi và ngài
đã kiên định đứng vững trong dốc quyết yêu thích vâng phục hơn hết mọi sự,
bất chấp nỗi chán ngán đối với một chức vụ mà ngài cảm thấy đầy dẫy những bận rộn
chiếm hết thì giờ của ngài, cũng như những gian dối không thể tránh khỏi trong
giao tiếp với trần đời” (*) (s. 83).
Thật không lạ lùng gì khi đứng trước một quyết định quan trọng như thế, cha
Lambert có thể rất hoang mang và có thể vào chính lúc này đây, lại bị cám dỗ mất
hết nhuệ khí. Nên hiểu rằng, thần dữ một khi đã không thành công trong việc chống
lại ý muốn của Thiên Chúa, nó sẽ cố gắng để tác động ít nhiều vào niềm vui sau
một quyết định đã được phân định tốt[66].
Vì thế, điểm mấu chốt là không được để cho thần dữ đánh cắp đi niềm vui, một niềm
vui xuất phát từ việc đưa ra chọn lựa sau một tiến trình phân định chuẩn xác[67]. Thật vậy, “viễn
tượng này khiến cha Lambert hết sức khổ
sở, nhưng ngài được an ủi ngay bởi
ý nghĩ nếu Thiên Chúa cho ngài vào Trung tâm Xã hội thì cũng sẽ rút ngài ra khi
Người muốn, để gửi ngài đến những nơi còn chưa biết đến vương quyền Người. Cũng
như thực ra ngài đã không chịu hiểu: nếu Thiên Chúa ban cho ngài ơn huệ đó,
ngài không cần khổ tâm tìm hiểu mà chỉ cần vâng lời” (s. 84a).
+ “Ngài cảm thấy an tâm là
các bận rộn công việc sẽ không phương hại đến việc cầu nguyện” (s.84b).
+ Về việc học thần học, lúc này cha Lambert cũng cảm
thấy rằng “sẽ dễ dàng tìm ra một giáo sư dạy kèm thần học cho ngài ở Rouen thay vì
đi Paris học ở các trường công, để ngài chuẩn bị sẵn sàng thực hiện các ý định
của Thiên Chúa, đó là một khi rời khỏi Rouen, sẽ ra đi vượt bờ đại dương”
(s. 84c).
Như vậy, sau khi đã làm tất cả mọi sự cùng với Chúa để đi đến quyết định,
cha Lambert như tin chắc rằng có bàn tay Thiên Chúa ở với ngài từ khởi sự cho đến
hoàn thành.
d. Xin xác chuẩn: Thánh I-nhã dạy rằng: “Khi lựa chọn hay quyết định xong, mau mắn cầu nguyện trước mặt Thiên
Chúa, dâng lên lựa chọn của mình và xin Ngài đoái nhận cùng xác chuẩn, nếu điều
này giúp phụng sự, ngợi khen và làm vinh danh Ngài hơn” (LT 183).
Chúng ta có thể nhận ra những dấu
chỉ ơn xác chuẩn của Chúa sau quyết định cuối cùng của cha Lambert như sau:[68]
+ Cảm thấy Chúa gần mình: Vào lúc cha Lambert chuẩn bị viết thư chấp
nhận lời mời thì ngài nhận được một loạt thư từ của bạn bè thúc giục ngài nhanh
chóng chấp nhận (x. s. 85a). Họ phàn nàn vì ngài đã từ chối lần trước:
“Ngài nên nhớ rằng nếu ngài không chuẩn bị
đến nhận chức, người ta quyết định sẽ đến “bắt” ngài đi đấy!”. Đọc câu này
xong, ngài thưa chuyện với Chúa bằng một suy nghĩ đầy xúc động: "Ôi lạy Thầy chí ái, nếu Chúa đã giải
giáp con thì con hẳn sẽ sợ những đe dọa này rồi! Nếu Chúa cho phép con sử dụng
chúng, thì con không thấy nghìn cách tránh thoát sao? Chúa khiến con lịm ngủ và
tê liệt, Chúa muốn con mang lấy ách này để con hằng vác Thánh Giá với sự ưng
thuận của phần thượng đẳng của linh hồn con, là phần Chúa đã cho nó được nên một
với Chúa một cách đáng ca ngợi, vì thế, nó là phần không thể muốn sự gì khác
ngoài điều làm Chúa hài lòng, với sự dứt khoát chê ghét các chiều hướng, các luận
lý của những khuynh hướng tự nhiên nơi con." Chính trong cái nhìn này
mà ngài đã viết” (*) (s.
85b).
+ Cảm thấy
bình an trong thâm tâm: dù có đôi chút lo lắng, cha Lambert vẫn được thúc đẩy
hành động một cách can đảm, dẫn tới sự hiệp nhất và hòa giải với những khía cạnh
tốt, với những người tốt trong đời mình. Những hành động này nếu không có hậu
quả như thế thì sau cũng được dẫn về như
thế: “Tuy nhiên ngài cũng thu xếp mọi việc để trung thành ra đi theo con đường
mới mà Chúa Quan Phòng đã vạch ra. Ngài xác
tín là sẽ gặp nhiều cơ hội để chịu khổ, và cuối cùng Thiên Chúa sẽ ban cho ngài
hoàn thành ý nguyện về Thánh Giá, ý nguyện mà người ta thấy diễn tả ra trên
con dấu ngài dùng thay cho con dấu gia huy. Trong con dấu có in
dòng chữ « Opto cruentam gerere perpetuo crucem ». Nhân đây cũng nói
thêm là đã từ lâu ngài không đóng con dấu gia huy vào thư tín nữa, mà ngài cho
làm con dấu mới khắc hình Chúa Giêsu đang vác Thánh Giá. Trước khi xa rời nơi ẩn
dật, ngài đến Notre-Dame de la Délivrande để giã từ Đức Mẹ, người Mẹ rất dịu hiền,
rất yêu dấu của ngài. Tình cờ tại đây ngài lại gặp Đức Giám mục giáo phận Bayeux.
Đức Giám mục khen ngợi dân thành Rouen
đã nhanh chóng thu nhận ngài, và mời ngài phải đến dùng cơm tối với mình.
Trong bữa ăn, Đức cha nhận thấy là buổi gặp gỡ tầm cỡ như vậy vẫn không làm suy giảm tinh thần tĩnh tâm sâu lắng
của Đức cha Lambert chút nào” (s. 85c).
+ Được thúc đẩy dành nhiều
thời giờ hơn cho những người thân yêu, dành nhiều thời giờ cho cầu nguyện, cho
cộng đoàn và những hành xử lành mạnh khác và không bị thu hút vào những hậu quả
xấu trong đời mình: “Ngài nghĩ là từ nay Thiên Chúa Quan Phòng
giao cho ngài 200 cô gái và sau đó là tất cả những cô gái sẽ đến Trung tâm ngài
cai quản, cũng như chừng ấy cậu bé để ngài giáo dục chúng biết chân lý cứu rỗi,
để chúng học một số nghề nào đó kiếm sống. Ngài còn nghĩ Thiên Chúa ra lệnh cho
ngài trợ giúp cả vật chất lẫn tinh thần cho tất cả những người nghèo của 33
giáo xứ trong thành phố cũng như ở ngoại ô thủ phủ một tỉnh lớn như thế. Ngài
phải tiếp đón cách tử tế và chuyên tâm giáo dục tất cả những trẻ em bị cha mẹ
trần gian bỏ rơi. Chúng có quyền đặc biệt là được người Cha trên trời cứu giúp.
Thiên Chúa muốn ngài biểu lộ tình phụ tử với những đứa trẻ đó. Ngài phải cố gắng
hết sức để gieo lòng kính sợ Thiên Chúa và duy trì điều đó trong tâm hồn chúng.
Ngài cũng phải thiết lập bên trong lẫn bên ngoài Trung tâm Xã hội một tình yêu
thương hoàn hảo giữa những người tuỳ thuộc vào ngài, bằng cách hiệp nhất ngài với
họ bằng những dấu chỉ biểu lộ lòng quý mến chân thành đối với bản thân họ vì
đánh giá cao vị trí của họ. Và ngài nảy ra ý định sẽ dùng bữa chung với họ ít
nhất mỗi ngày một lần, nhất là với những trẻ em, là những chủ thể tạo cho ngài
niềm ưa thích hạ mình, xa tránh mọi trọng vọng. Nhưng khi bàn hỏi với vài người
khôn ngoan, họ không tán thành ngài thực hành như thế hằng ngày, ngài đành thỉnh
thoảng thực hiện ý định trên, mặc dù chưa được như lòng ngài mong muốn” (s. 86).
Sau những gì đã xảy ra, vào ngày 28.03.1656, cha Lambert rời Caen và lên đường
đến thành phố Rouen. Sử gia Brisacier ghi nhận: “Thế là dưới sự thúc đẩy của niềm phó thác vào Thiên Chúa, ngài nắm quyền
điều khiển Trung tâm. Chẳng bao lâu ngài đã làm cho người ta thấy được khi ngài
dễ dàng điều khiển một cộng đồng nhỏ bé như thế, thì cũng sẽ dễ dàng cai quản một
dân tộc lớn lao hơn” (s. 89).
Có thể nhận ra trong những lần phân định để tìm kiếm thánh ý Chúa, cha
Lambert đã nhờ đến cả một mạng lưới hỗ trợ
ngài. Điều này là thật sự cần thiết theo lời khuyên của cha Mark E. Thibodeaux
Sj.: “Khi chọn tiến bước trong đời sống
thiêng liêng, điều tối quan trọng là tôi có một mạng lưới hỗ trợ mạnh mẽ đi sát
ngay sau tôi, khích lệ tôi, xua đuổi thần dữ, thì thầm vào tai tôi những mẹo nhỏ,
và giúp tôi vượt qua …. Tôi sẽ cần những người hướng dẫn và những người đồng
hành tốt, cùng mối liên kết chặt chẽ với Hội Thánh”[69].
Và trong mọi trường hợp các vị linh hướng không làm thay công việc phân định
của cha Lambert; nhưng khởi đi từ kinh nghiệm thiêng liêng cá nhân và cái nhìn
khách quan từ bên ngoài, các vị ấy có thể soi sáng, hỗ trợ, góp ý cho ngài tiến
hành phân định theo đường hướng của Chúa Thánh Thần. Trong cuộc tìm kiếm chung
này, chính cha Lambert - người thụ hướng - sẽ đưa ra lựa chọn hay quyết định
cho bản thân dưới ánh sáng của Thánh Thần[70].
4.2. Biến
cố thứ hai
4.2.1. Truyền giáo miền Viễn
Đông
1) Những sự kiện liên quan
- Một dự cảm ngày dâng Lễ mở
tay: Ngày 08.02.1656,
lúc dâng lễ mở tay tại nhà nguyện chủng viện cha thánh Jean Eudes, cha Lambert
đã có một dự cảm rất kỳ lạ, ngài ghi lại như sau: “Tình yêu mà Thiên Chúa đã khấng ban cho tôi hôm nay đang cháy bừng lên trong khi cử hành thánh lễ
và sau thánh lễ, như đang hăng hái đem
tôi đến với các dân tộc chưa bao giờ biết Người, hơn là đến với các dân tộc
đã biết Người. Và, với tôi, dường như tôi phải đi qua bên kia bờ đại dương để
tìm kiếm những người mù đáng thương này, những người mà Thiên Chúa muốn kéo họ
ra khỏi nơi tối tăm nhờ công nghiệp Máu Thánh Người đã đổ ra cho hết thảy mọi
người” (*) (s. 76). Điều ngài cảm nhận trên lại đúng vào lúc người
ta bảo ngài đừng nghĩ đến Canada nữa, ngài cũng không hề biết cũng không nghĩ
gì về vùng Đông Ấn, là nơi Thiên Chúa định sẵn cho ngài sau này, cũng như cho tới
lúc này, chưa một ai có ý định cử ngài đi vùng Đông Ấn cả (x. s.73- 76).
- Ý tưởng ngưng làm việc tại
Trung tâm xã hội Rouen: Trong thời gian làm việc tại Trung tâm xã hội
Rouen, theo lời kể của cha Brisacier: “Thỉnh
thoảng ngài lại có ý tưởng Thiên Chúa sắp rút ngài khỏi Trung tâm Xã hội. Chúa
để ngài tại đó là chủ ý cho con người ngài hoàn toàn chết đi vì bao phản đối
ngài phải thường xuyên hứng chịu. Ý tưởng này càng được củng cố mạnh mẽ hơn khi
ngài trở về Rouen. Tuy vậy, ngài không lơ là chút nào bổn phận của chức vụ
mình, mà chỉ nghĩ đến việc đi Paris để lo công chuyện cho người nghèo” (s.
131).
- Cuộc gặp gỡ “Nhóm Bạn Hiền”
(Les Bon Amis) ở Paris năm 1657: Trong thời gian cha Lambert lưu lại Paris gần ba tháng để xin trợ cấp cho
Trung tâm xã hội, ngài tới thăm em là Nicolas và gặp gỡ “Nhóm Bạn Hiền” do cha
Jean Bagot điều khiển. Tại đây, ngài khám phá ra chương trình truyền giáo tại
Việt Nam mà cho đến lúc này ngài chưa hề nghĩ đến. Theo lời kể của cha
Brisacier: “Đức cha Lambert đã ở với người
em trai và rất quý trọng nhân đức của những thanh niên đang ở Paris cũng như những
người khác mà ngài đã nghe kể đến. Con tim ngài gắn bó với họ cách vô hình. Còn
về phần họ, họ cũng thấy mình cần phải kính trọng ngài vì lòng đạo đức cũng như
những tài năng tự nhiên của ngài” (s. 140).
- Từ “Nhóm Bạn Hiền” đến chương trình truyền giáo Viễn Đông:
+ Sự tín nhiệm quý giá: Các thành viên “Nhóm Bạn Hiền” qua cuộc gặp
gỡ đã “công nhận ngài thực sự đầy khôn
ngoan, nên không cảm thấy khó khăn khi đến tham khảo ý kiến của ngài, dù là về
kế hoạch truyền giáo, hay về tinh thần và nội quy nơi nhà họ ở. Sau khi yêu cầu
dành một thời gian ngắn để suy nghĩ vấn đề trước mặt Thiên Chúa trong kinh nguyện,
ngài tỏ quan điểm đối với việc truyền giáo là nên để những người lưu trú tại
Marseille được tự do hành động, bởi vì ngài nhận thấy trong các lá thư của họ
chứa đầy sự linh hứng của Thần khí Thiên Chúa…” (s. 141).
+ Ý hướng tham gia chương
trình truyền giáo: “Vì được người ta tin tưởng vào tư cách cũng
như vào kiến thức của mình, dần dà nảy
sinh trong Đức cha Lambert một
khuynh hướng âm thầm về chương trình vĩ đại ấy, và nảy sinh trong những người
khác ý tưởng là ngài sẽ đem lại nhiều ích lợi cho chương trình đó. Nhưng cả hai
bên, chẳng ai biết bên kia đang suy nghĩ gì. Ngài trở về Rouen, lòng tràn đầy một niềm hăng hái mới” (s.
142).
Phải chăng những sự kiện trên là những khoảnh khắc mang tính bước ngoặt
trong cuộc đời của cha Lambert? Ngài đã làm gì khi có một “niềm hăng hái mới” khuấy động tâm hồn ngài sau chuyến đi này?
2) Gặp gỡ cha linh hướng, phân định và chọn lựa
a. Đối tượng của việc lựa chọn
Cha Lambert có nên tham gia chương trình truyền giáo miền Viễn Đông hay
không?
Về đến Rouen, ngài trình bày với cha linh hướng Simon Hallé[71]
những dữ kiện nội tâm cũng như những
gì đã xảy ra trong cuộc hành trình vừa qua, nhất là đối với việc truyền giáo mà
ngài gần gũi suốt năm tuần qua, bận rộn đến mức mỗi ngày chỉ ngủ được vài giờ
(x. s. 143).
b. Tiến trình phân định
Trước hết, cha Lambert đã rất nghiêm túc bàn bạc với cha linh hướng để xét từ gốc rễ xem lòng say mê này có do
Thiên Chúa tạo nên hay không (x. s. 146a).
Bằng cách giải bày hết mọi lý do thuận nghịch cùng với mọi điểm mạnh của
chúng, Ngài nói với cha linh hướng:
- Lý do thuận: “Xét
công việc theo luật cẩn trọng bình thường, hoạ có là dại dột mới từ bỏ điều chắc
chắn mà theo điều mơ hồ. Và ơn gọi của ngài ở Rouen, dù nhìn từ góc cạnh nào,
cũng đều mang tính cách thần linh, như cách ngài được mời gọi tham dự và được mọi
người cổ vũ, hoặc nhìn sự chúc lành của Thiên Chúa khi ngài làm việc vì lợi ích
phần hồn lẫn phần xác cho những người nghèo, cũng như nhìn vào những thành quả
gặt hái được khi làm các công việc từ thiện khác vì lợi ích cho thành phố và
cho tỉnh” (s. 146b).
- Lý do nghịch: “Xét tình
trạng nội tâm hiện thời, ngài vẫn hồi
tâm sâu xa giữa bao công việc tản mạn bên ngoài, ngài thường xuyên ghê tởm
mọi thú vui ngài gặp thấy trong công việc. Ngài nói: «Tất cả những suy nghĩ ấy
chắc chắn là những lý do khẩn thiết để giữ tôi lại nơi tôi đang ở. Vả lại, việc
thay đổi bậc sống đến ba lần trong một vài năm ngắn ngủi sẽ khiến người ta nhìn
tôi như một người bất an và không ổn định, không thấy ở vị trí nào là tốt cả,
nhẹ dạ trao mình cho bất cứ gì cũng được. Ngoài ra tôi còn phải cảnh giác việc
đi tìm điều tốt nhất cho bản thân qua một tinh thần thầm kín đầy tính tự phụ,
đó là đi theo những con đường phi thường. Và tôi phải e sợ điều này nữa là
không lượng sức mình yếu ớt, đâm đầu vào một con đường khó khăn và gai góc, cần
nhiều sức khoẻ và đức hạnh hơn mức tôi đang có”. (x. s. 146c).
Chúng ta hãy nhìn vào cách cha Lambert “xét từ gốc rễ” những dữ kiện nội tâm này như thế nào? Đó là “những điều ngài nhìn lại”.
Kinh nghiệm nhìn lại là thứ kinh nghiệm của người đã có một thời gian dài quen
với ý thức phân định về những rung cảm thiêng liêng trong đời sống cá nhân. “Hồi
tâm sâu xa”, một hạn từ cũng được dùng trong linh đạo I-nhã, mang ý
nghĩa quan trọng khi phản tỉnh về những suy nghĩ, những chuyển động bên trong
và quan sát những phản ứng khác nhau mà chúng tạo ra nơi mình, để dần đưa đến
việc nhận thức được đâu là những tư tưởng đến từ Thiên Chúa để nỗ lực thuận
theo và đâu là những tư tưởng không phải do Người để ra sức gạt bỏ[72].
- Lý trí nghiêng về phía nào?
Sau khi đã kê ra hết tất cả những lý do thuận nghịch, cha Lambert đã đem đối
chiếu chúng với khuynh hướng mạnh mẽ thúc đẩy ngài đến với công cuộc truyền
giáo, để xem lý trí nghiêng về phía nào?
Câu trả lời là: “Bất chấp mọi lý do
đã khuất phục ngài, không hiểu sao ngài
vẫn nghiêng chiều về việc truyền giáo”
(s. 147a).
+ Ngài nói: “Ngài chỉ vào Trung tâm
Xã hội là để hy vọng ra khỏi đó càng sớm càng tốt, và có vẻ như đã đến lúc rời
Trung tâm. Hiện nay người ta ít cần đến ngài hơn trước, nhất là từ khi các ông
Bimorel[73]
gia nhập Trung tâm để chăm lo cho Trung tâm” (s. 147b).
+ Cha Lambert nhận thức rất rõ là: “Ngài
đâu rời Trung tâm vì nhẹ dạ hoặc chán nản, bởi vì ngài sẵn sàng chết cho nó nếu
người ta xác quyết đó là ý Chúa. Còn các bậc sống ngài đã trải qua đó là những
bậc dự bị Thiên Chúa dùng để chuẩn bị cho ngài sống đời Tông đồ. Có vẻ như bậc
thẩm phán ở đời là để chuyển qua bậc thẩm phán của chức Tư tế” (s. 147c).
+ Thế rồi,“trong cô tịch, ngài đã cầu
xin ơn có được tinh thần nguyện ngắm vốn là điều cốt lõi của một nhà thừa sai
truyền giáo.(*) Thiên Chúa đã thánh hiến ngài lo cho những người
nghèo không chút của cải vật chất nào trong Kitô giáo, là để sau đó áp dụng vào
những người nghèo khác còn đáng thương hơn, vì họ không có chút của ăn thiêng
liêng nào ở giữa những người ngoại giáo” (s. 147d).
+ Hơn nữa,
“Ngài không đi tìm hào quang của chức Tông đồ giữa những người này, nhưng đi
tìm bóng tối của một cuộc sống ẩn dật, ô nhục của Thánh Giá, bị tước đoạt mọi
êm dịu cuộc đời trần thế, hoàn toàn phó mình cho Đấng Quan Phòng tại những vùng
đất xa xôi vô danh, nơi mà sau khi đã từ giã tất cả những gì là thụ vật, ngài sẽ
gặp lại tất cả tuyệt vời hơn trong Thiên Chúa” (s. 147e).
+ Cha Lambert lắng nghe được tiếng
Chúa mời gọi ngài hướng lòng về điều gì? “Ngài
không hiểu tại sao, dù yêu quý thiết tha Trung tâm Xã hội, ngài lại không muốn
góp vào đó hoa lợi còn lại từ tài sản riêng của ngài, mà lại rất muốn trao hết
tài sản vào việc truyền giáo của các vị ở Paris, trong đó có người em trai
ngài” (s. 147g).
+ Và cuối cùng, ngài nói: “nếu như sau khi đã đặt tất cả dưới chân
bàn thánh, mà người ta xét rằng ngài cần giữ ơn gọi đầu tiên, thì ngài sẽ an
tâm ở lại Trung tâm, không bao giờ nghĩ đến một ơn gọi khác và không phản đối
kêu ca gì trong chuyện ấy” (s.147h).
Như vậy, sau nhiều giờ cân nhắc trong tinh thần cầu nguyện, đây là thời điểm cha Lambert có được một sự hiểu
biết chín chắn hơn cả. Có lẽ ngài không cảm thấy rằng mình đang quyết định, cho
bằng là thấy mình đang nhận ra cái
quyết định mà lòng trí đã thực hiện, đó là ngài “đâu rời Trung tâm vì nhẹ dạ hoặc chán nản; bậc thẩm phán ở đời là để
chuyển qua bậc thẩm phán của chức Tư tế; lo cho những người nghèo không chút của
cải vật chất nào trong Kitô giáo, là để sau đó áp dụng vào những người nghèo
khác còn đáng thương hơn, đó là những người ngoại giáo không có chút của ăn
thiêng liêng nào” (s. 147c).
Điều đáng chú ý ở đây chính là động lực
chọn lựa của cha Lambert. Vào thời điểm
này ngài đã nhận ra có một lựa chọn vượt trên các lựa chọn khác để đưa ngài đến
các ước mơ, những ước mơ mà lúc ban đầu đối với ngài không phải là lý tưởng,
cũng chẳng đẹp đẽ gì: “…một tinh thần thầm
kín đầy tính tự phụ, đó là đi theo những con đường phi thường [...]; không lượng
sức mình yếu ớt, đâm đầu vào một con đường khó khăn và gai góc, cần nhiều sức
khoẻ và đức hạnh hơn mức tôi đang có” (s.146c). Nhưng cách nào
đó chúng thực tế và đúng đắn hơn, còn các lựa chọn khác, dù rằng có thể đẹp đẽ
hơn, thoải mái hơn, thậm chí an toàn hơn nữa, nhưng sẽ dần khuất khỏi tầm nhìn
của linh hồn, và rồi sẽ dần biến mất nơi cuối chân trời[74].
c. Quyết định
Với sự trợ giúp thiêng liêng của cha linh hướng Hallé, cuối cùng, cha
Lambert đã chọn điều chỉ thuận theo lý trí chứ không theo tình cảm: “Trong khoảng thời gian 10 ngày, vị linh hướng
đã công bố tới hai lần là ngài tin rằng Đức cha Lambert được mời gọi sang Trung
Quốc, và ít nữa, ngài phải đi trình diện ở nơi người ta chiêu mộ những người thợ
Phúc Âm, và phải khiêm tốn chấp nhận bị loại trừ, một khi họ cho là ngài không
thích hợp với chương trình của họ. Ngài lên đường đi Paris ngay sau lần công bố
thứ hai, viện cớ đến đó để hoàn tất những dự án cho người nghèo. Thực ra ngài
có ý định không trở về Rouen nữa mà dâng hiến trọn vẹn con tim cho việc truyền
giáo” (s. 148a).
d. Xin xác chuẩn
Sau khi đã quyết định đúng đắn theo con đường Chúa muốn, trên đường trở lại
Paris để đi Roma, cũng theo chỉ dẫn của cha linh hướng, cha Lambert đã dừng
chân tại Nữ Đan viện Carmel Pontoise, và khi dâng lễ tại nhà nguyện nơi chôn cất
Mẹ Marie de l’Incarnation, cha mau mắn dâng sự lựa chọn của mình lên Thiên Chúa
để xin Ngài đoái nhận và xác chuẩn: “Khi
cử hành thánh lễ ở Pontoise trong nhà nguyện có ngôi mộ nữ tu Marie, ngài đã
phó thác công việc cho Thiên Chúa” (s. 148b).
4.2.2. Đại diện Tông tòa ở
châu Á
Tại Paris, vào ngày hôm sau, cha Lambert gặp lại Nhóm Bạn Hiền ở phố
Saint-Dominique, ngài ngỏ ý muốn “được
làm một nhà truyền giáo bình thường cùng với một giáo sĩ mà ngài tin là có thể
sắp xếp được…”, ngài cũng sẵn sàng “dâng
hiến tất cả phần gia sản còn lại của ngài” góp vào nguồn tài chánh để cấp
dưỡng cho các vị Đại diện Tông tòa nơi mà Tòa Thánh sẽ gửi đến (x. s. 148).
Hai ngày trước khi khởi hành đi Roma, ngài được mời tham dự Hội nghị Truyền
giáo. Trong hội nghị, người ta trình bày hiện đang cần ba vị Giám mục, một cho
xứ Trung Hoa, một cho xứ Đàng Ngoài và một cho xứ Đàng Trong. Đức cha Lambert hết
sức ngạc nhiên khi nghe tên mình đứng thứ hai sau tên François Pallu, là một
linh mục đạo đức, tiến sĩ đại học Sorbonne, công trạng lừng danh (x. s.
150a).
Đức cha Lambert đã phản ứng
như thế nào trước sự kiện này?
- Thái độ bình tâm
Nhờ quen sống bình tâm theo linh đạo I-nhã và nhờ lòng yêu mến tinh thần khổ
nhục, từ bỏ triệt để của Dòng Bé mọn, nên cha Lambert, dù rất ngạc nhiên khi
nghe tên mình là ứng viên được chọn vào chức vị Giám mục, ngài không hề để lộ
ra chút cảm xúc nào. Cha Brisacier kể lại: “Vinh
dự bất ngờ này không tác động bao nhiêu đến ngài, ngài như là kẻ vô cảm, không
nói lời nào để xác nhận về bản thân mình, hoặc để khiêm tốn từ chối đề nghị đó.
Thậm chí ngài còn lắng nghe như là người ta đang bàn về một người khác chứ
không phải ngài. Và ngài tin rằng là khi người ta đề cử ngài vào chức vụ cao
quý đó, mặc dầu ngài cho là vô cùng bất xứng, ý nghĩ duy nhất là ngài càng phải
hoàn toàn chết cho chính mình hơn nữa, bằng cách luôn trung thành với các tác động
của ân sủng. Ngài cương quyết không để mình bận tâm đến việc bổ nhiệm chức vụ
quan trọng đó, để xúc tiến hay để ngăn cản, ngài chỉ giao số mệnh mình vào tay
Thiên Chúa. Chỉ Thiên Chúa mới có quyền chọn lựa các thừa tác viên trong Giáo Hội
của Người, nhất là để mang Đức Tin đến với các dân ngoại ở tận cùng thế giới” (s.
150b).
Đức cha Lambert phân biệt ba mức độ vô cảm: mức độ thứ nhất là nghe tất cả
những gì người ta nói tốt về mình như thể là nói về một người khác hay như
không nói gì cả; mức độ thứ hai là không đi kể lại cho người khác và chôn vùi
nó vào chốn quên lãng muôn đời; mức độ cuối cùng là trong lòng tự nhận mình là
kẻ hèn hạ, đáng khinh nhất trên thế gian và không biểu lộ ra bên ngoài cảm xúc
nào cả (x. s. 112).
- Đức vâng phục trọn vẹn
Ước muốn làm một nhà truyền giáo bình
thường là tâm nguyện của Đức cha Lambert trong sứ vụ truyền giáo tại Á
châu, ngay cả khi nhận được tin Đức Thánh Cha quyết định bổ nhiệm ngài vào chức
vụ Giám mục, ngài thậm chí còn cảm thấy buồn phiền khi chấp nhận điều đó, và
giá như được tự quyết, ngài sẽ ra đi với tư cách nhà truyền giáo bình thường,
vì ngài cảm thấy đó là niềm vinh dự cao quý đối với ngài. Tuy nhiên, sau khi
bày tỏ mọi sự với cha Hallé, Đức cha đã vâng phục trọn vẹn theo lời khuyên của
vị linh hướng, người đã nhiều lần nói với Đức cha Lambert rằng đó là ơn gọi của
ngài, và giờ đây hơn bao giờ hết, ngài phải gắn bó với ơn gọi đó mà không cần
lý luận, không kháng cự, và từ nay cứ làm theo những gì mà các vị có trách nhiệm
ở Paris đang mong đợi nơi ngài về chương trình truyền giáo đó (x. s. 197-199).
Ngày 02.06.1660, Đức cha Lambert kín đáo rời Rouen để đi Paris. Tại đây,
sau tám ngày tĩnh tâm, vào ngày 11.6, ngài được Đức cha Le Bouthillier, Tổng
Giám mục Địa phận Tours phong chức Giám mục, cùng hai Giám mục khác phụ tế, tại
nguyện đường Dòng Thăm Viếng, đường Saint-Antoine, Paris. Lúc này các giám mục
Pháp đang họp Đại hội Giáo sĩ Pháp tại Paris (Assemblée du Clergé de France).
Tại cảng Marseille, ngày 24.11.1660, Đức cha rời quê hương Pháp của ngài,
lên đường truyền giáo miền Viễn Đông, ngài được 36 tuổi [75].
Kinh nghiệm dày dặn trên bước đường truyền giáo tiếp theo của Đức cha
Lambert tại Á châu cũng cho thấy, nét cơ bản trong đời sống của người tông đồ
là khả năng kết hiệp thâm sâu với Thiên Chúa, đặc biệt với Chúa Thánh Thần, tác
nhân chính của công việc truyền giáo. Ngài luôn ý thức về sự cần thiết phải bàn
hỏi, lắng nghe sự thúc đẩy bên trong của Chúa Thánh Thần, khả năng biện phân thần
khí và tuân hành thánh ý Chúa, nên khi viết “Về
việc cầu nguyện của vị một vị thừa sai tông tòa tại những nơi truyền giáo của
mình” ngài nhắn nhủ như sau: “Nếu phải
hoạt động, linh hồn sẽ bàn hỏi với Thần Khí của Chúa Giêsu Kitô đang ngự trong
linh hồn để biết điều Thần Khí muốn và linh hồn sẽ hoạt động do bởi Thần Khí.
Qua đó, người ta có thể thấy niềm hạnh phúc thật của một thọ tạo tùy thuộc vào
Thiên Chúa”[76].
LỜI KẾT
Câu chuyện của Đức cha Lambert trong vòng 36 năm tại Pháp được khép lại nơi
đây. Chúng ta sẽ kết thúc hành trình khám phá việc phân định thần loại nơi Đức
cha với lời nguyện dâng hiến thật đẹp trong một lần ngài dâng lễ tại Ayutthaya
(1668): “Lạy Chúa, thật xác đáng hơn khi con trao cho Chúa toàn quyền tuyệt đối
trên thân xác và máu huyết con để Chúa định đoạt chúng theo Ý Chúa muốn. Vậy, lạy
Thiên Chúa của con, từ rày về sau, xin Ngài hãy là Thầy cả dâng lễ hiến sinh của
thân xác và máu huyết con như là vật đã hoàn toàn thuộc về Ngài, và con không
còn cầu mong sự gì cho chúng, ngoại trừ việc xin cho chúng trở thành thừa tác
viên cho Ý muốn linh thánh của Ngài để Ngài tác động trên chúng hợp theo đúng
những gì mà Chúa sẽ lệnh truyền cho con”[77].
Còn gì cao quý hơn khi trọn đời Đức cha Lambert luôn dấn thân vào một hành
trình chân thật và mở ra với Chúa Thánh Thần, trao hiến trọn vẹn đời sống của
mình (sức khỏe, tiền bạc, công danh, sự nghiệp…) cho Thiên Chúa, để sẵn sàng
làm bất cứ điều gì cho Thiên Chúa được vinh danh hơn.
Phải chăng cuộc sống và gương sáng của Đức cha Lambert cũng mời gọi người
tu sĩ hôm nay, hãy dấn thân cho thế giới với một tinh thần mới, không rập theo
thói đời, phụ thuộc những giá trị trần thế đang trên đường biến mất, nhưng là một
tinh thần được chiếu soi bởi ánh sáng của Chúa Thánh Thần, để mỗi người có khả
năng suy nghĩ, quyết định và dấn thân hành động theo đúng thánh ý Chúa. Đoạn
thư Thánh Phaolô gởi giáo đoàn Roma luôn là một lời nhắc nhở cho chúng ta trong
mọi thời đại: “Anh em đừng có rập theo đời này, nhưng hãy biến đổi con người
anh em bằng cách đổi mới lòng trí, hầu biết phân định đâu là thánh ý Thiên
Chúa, cái gì là tốt, cái gì đẹp lòng Chúa, cái gì hoàn hảo” (Rm 12,2).
TÀI LIỆU
THAM KHẢO
PHANXICO, Gaudete et Exultate - Tông huấn Niềm Vui và Tin Mừng, Roma,
19/03/2018.
BÉNIGNE VACHET, Chuyện Đức cha
Lambert de la Motte (1624-1679), Cao Kỳ Hương dịch, Toulouse, 2013.
ĐÀO QUANG TOẢN, Đức cha Lambert de la
Motte - Giai đoạn tại Pháp (1624-1660), LHNB, Toulouse, 2002.
______, Bài viết của Đức cha Lambert,
LHNB, Tp HCM, 2012.
FRANçOIS FAUCONNET BUZELIN, Le père
inconnu de la Mission moderne, Le
père inconnu de la Mission moderne, Pierre
Lambert de la Motte, premier vicaire
apostolique de Cochinchine, Paris, Archives des Missions Étrangères, 2006.
HENRI DE FRONDEVILLE, Đức cha Pierre
Lambert de la Motte (1624-1679), Nguyễn Xuân Hùng dịch, LHNB, Tp Hồ Chí
Minh, 2007.
JACQUES-CHARLES DE BRISACIER, Vie de
Mgr. Lamothe Lambert, Évêque de Béryte - Cuộc đời Đức cha Lambert de la Motte, Giám mục Hiệu toà Béryte,
(AMEP, vol. 122), Cao Kỳ Hương dịch, LHNB, 2015.
LAUNAY ADRIEN, Histoire générale de la Société des Missions Étrangères
de Paris, Tome I, Paris, Téqui, 1894, (réédité en 2003).
MARK E. THIBODEAUX, Tiếng Chúa trong
lòng ta, LHNB, Trung tâm
Linh đạo I-nhã Đắc Lộ, 2021.
P. COCHOIS, Bérulle et l’École
française, Paris, Seuil, 1963.
R. DEVILLE, L’École française de
spiritualité, Desclée, Paris, 1987.
TIMOTHY M. GALLAGHER, Phân định thần
loại trong cuộc sống mỗi ngày theo Thánh I-nha-xio, LHNB, Tủ sách linh đạo
Thánh I-nha-xio, 2011.
_____, Phút hồi tâm, tìm gặp Chúa
trong mọi sự, Tôn Giáo, 2020.
DÒNG TÊN VIỆT NAM, Tạp chí linh đạo I-nhã: Phân định thiêng
liêng, 2019.
_____, Bạn đường
Linh thao, LHNB.
NHÓM NGHIÊN CỨU LINH ĐẠO MTG, Lịch sử
Dòng Mến Thánh Giá, LHNB, Tp HCM, 2018.
http://www.donghanh.org/main/05/tl-006.htm.
https://dongten.net/2021/12/14/chuyen-de-nam-inha-magis-hon-nua-trong-tinh-yeu/
[3] X. NHÓM NGHIÊN CỨU LINH ĐẠO MẾN THÁNH GIÁ (NNCMTG)
“Đức
cha Pierre Lambert de la Motte- Đấng Sáng lập Dòng Mến Thánh Giá” trong Lịch sử Dòng Mến Thánh Giá, LHNB, Tp
HCM, 2018, tr. 63-67.
[4] X. JACQUES-CHARLES DE BRISACIER, Vie
de Mgr. Lamothe Lambert, Évêque de Béryte - Cuộc đời Đức cha Lambert de la Motte, Giám mục Hiệu toà Béryte,
(AMEP, vol. 122), Cao Kỳ Hương dịch, LHNB, 2015, s. 9.
[5] CH. QUILLET, Expression
et Transmission de l’expérience
mystique dans le milieu normand de 1630 à 1960, Luận án tiến sĩ, Đại học Paris IV, Sorbonne, 1993, tr. 82-85, do Fauconnet-Buzelin trích dẫn
trong Le
père inconnu de la Mission moderne, Pierre Lambert de la Motte, premier vicaire apostolique de Cochinchine,
Paris, Archives des Missions Étrangères, 2006, tr. 45.
[6] X. HENRI DE FRONDEVILLE, Đức cha Pierre Lambert de la Motte (1624-1679), Nguyễn Xuân Hùng dịch, LHNB, Tp.Hồ Chí Minh, 2007,
tr. 10.
[7] “Les Avocats en Parlement,
sont ceux qui ont prêté serment d’Avocats, et qui n’en font point les
fonctions. Ils ne peuvent occuper,
et ne signent pas les mémoires et consultations.” in Dictionaire
critique de la langue française, T.3,
1787. (“Những luật sư trong Nghị Viện
là những người đã đọc lời tuyên thệ của luật sư mà không hề thi hành chức vụ. Họ
không thể làm gì và không ký tên vào các văn bản”).
[10]
Linh mục Julien Hayneuve (hay: Hayneufve) (1588-1663), Dòng Tên, tác giả của 9
tác phẩm tu đức. (X. Henri Gensac,
“Hayneufve”, trong Dictionnaire de
Spiritualité, Tome VII,
Paris, Beauchesne, 1969).
[11]
Trường của dòng Tên tại Rouen lúc đó là “Collège de Bourbon”; ngày nay, đã trở thành trường trung học Corneille.
[13] ĐÀO QUANG TOẢN, Đức
cha Lambert de la Motte - Giai đoạn tại Pháp (1624-1660), LHNB, Toulouse,
2002, tr. 82.
[15]
Cha Chrysostome de Saint-Lô đã khấn vào Dòng Ba
Phanxicô ngày 03.06.1612, và qua đời tại
Paris ngày 26.03.1646 (X. ĐÀO QUANG TOẢN, Đức
cha Lambert de la Motte - Giai đoạn tại Pháp, sđd, tr. 106).
[17]
X. BÉNIGNE VACHET, Chuyện Đức cha Lambert
de la Motte (1624-1679), Cao Kỳ Hương dịch, Toulouse, 2013, số 3.
[18] X. ADRIEN LAUNAY, Histoire générale de la
Société des Missions Étrangères de Paris, Tome I, Paris, Téqui, 1894,
(réédité en 2003), tr. 154.
JEAN GUENNOU, Missions Étrangères de Paris,
Paris, Fayard, 1986, tr. 117-118.
[21] Đây là tên gọi do Henri Bremond đề nghị (X. H.
BREMOND, Histoire littéraire
du sentiment religieux, tome III: La
conquête mystique: L’École française,
Paris, Bloud et Gay, 1921).
[23] P. COCHOIS, Bérulle
et l’École française, Paris, Seuil, 1963, tr. 146, trích dẫn trong R. Deville, L’École
française de spiritualité, sđd, tr. 13.
[24] Cha
Simon Hallé là tu sĩ Dòng Bé Mọn (Les Minimes) do Thánh François de Paule (1436-1507) thành lập tại Ý và phát triển rộng rãi ở Pháp vào thế kỷ
XVII (X. J. CH. DE BRISACIER, Cuộc đời Đức
cha Lambert de la Motte, sđd, s.103). Riêng tại Rouen thì có từ năm 1600 X. ĐÀO QUANG TOẢN, Đức
cha Lambert de la Motte - Giai đoạn tại Pháp, sđd, tr. 127.
[28]
TIMOTHY M. GALLAGHER, O.M.V, Phân định thần
loại trong cuộc sống mỗi ngày theo Thánh I-nha-xio, LHNB, Tủ sách Linh đạo
thánh Inhaxio, 2011, tr. 42-43.
[29]
AMEP, tập 121, tr. 754-755 ; ĐÀO QUANG TOẢN, “Sự bất trung”, trong Bài viết của Đức cha Lambert, LHNB, Tp
HCM, 2012, tr. 63.
[30]
AMEP, tập 121, tr. 657-658 ; ĐÀO QUANG TOẢN, “Cuộc Tĩnh tâm 1663, tại Ayutthaya”, trong Bài viết của Đức cha
Lambert, sđd, tr. 30.
[31]
X. AMEP, tập 121, tr. 681-682; ĐÀO QUANG TOẢN, “Hành động”, trong Bài viết của Đức cha Lambert, sđd, tr.
46-49.
[33] X. CAO GIA ÂN Sj., “Nguồn hứng Kinh Thánh trong bộ
quy tắc phân định của
Thánh Inhaxiô”, trong Tạp chí Linh đạo I-nhã: Phân định Thiêng liêng, Dòng Tên Việt Nam,
2019, tr. 79.
[34] X. MARK E. THIBODEAUX Sj., Tiếng Chúa trong lòng ta, LHNB, Trung tâm Linh đạo I-nhã Đắc Lộ, 2021, tr. 22.
[35] X. TIMOTHY M. GALLAGHER, O.M.V, Phân định thần loại trong cuộc sống mỗi ngày
theo Thánh I-nha-xio, sđd, tr.15-16.
[37] Vào thời đó, còn có nhiều cấp hạng thứ vị
và bổng lộc khác nhau trong hàng giáo sĩ một giáo phận.
“Habitué : il se dit aussi, d’Un Ecclesiastique
qui n’a point de charge ni de dignité dans une Eglise, mais qui sert &
assiste l’Office divin & aux autres fonctions de Paroisse. Prestre
habitué, il est habitué à saint Eustache, à saint Paul, &c. - Il se met
aussi substantivement. Un habitué de Paroisse.” (Dictionnaire de l’Académie Française, 1694).
[38]
X. WILKE AU AND NOREEN CANNON AU, The
Discerning Heart: Exploring the Christian Path, tr. 60; http://www.donghanh.org/main/05/tl-006.htm.
[40] “Mouvement : Il se dit aussi
des différentes impulsions, passions, ou affections de l’âme”, (Dictionnaire de l’Académie Française,
1694).
[43] Vua Louis XIV ban tước
«Cố vấn danh dự Toà án Thuế vụ» của Thành phố Rouen cho Đức cha Lambert ngày
30.06.1656. Henri de Frondeville đã xuất bản văn thư này (sđd, tr. 21-22).
[46]
X. TIMOTHY M. GALLAGHER, O.M.V, Phân định
thần loại trong cuộc sống mỗi ngày theo Thánh I-nha-xio, sđd, tr.167.
[48]
X. BÙI QUANG MINH Sj., “Magis- hơn nữa trong tình yêu” ;
https://dongten.net/2021/12/14/chuyen-de-nam-inha-magis-hon-nua-trong-tinh-yeu/.
[50]
X. TIMOTHY M. GALLAGHER, Phân định thần
loại trong cuộc sống mỗi ngày theo Thánh I-nha-xio, sđd, tr.111.
[55]
X. MICAEN TRƯƠNG THANH TÙNG Sj., “Bộ công cụ phân định I-nhã. Giới thiệu tổng
quan”, trong Tạp chí linh đạo I-nhã: Phân định thiêng liêng, Dòng Tên Việt Nam,
2019; tr. 51.
[58]
X. MICAEN TRƯƠNG THANH TÙNG Sj., “Bộ công cụ phân định I-nhã. Giới thiệu tổng
quan”, sđd, tr. 51.
[60]
Theo WILKE AU AND NOREE CANNON AU, The Discerning Heart: Exploring the
Christian Path, sđd, tr. 60-65.
[68] Dựa theo “Dấu chỉ của xác chuẩn và không được xác chuẩn” của MARK E.
THIBODEAUX Sj., Tiếng Chúa trong lòng ta,
sđd; tr. 287-290.
[70] X. MICAEN TRƯƠNG THANH TÙNG Sj., “Việc phân định của vị linh hướng trong đồng hành và trợ
giúp phân định”, trong Tạp
chí Linh đạo I-nhã: Phân định Thiêng liêng, Dòng Tên Việt Nam, 2019, tr.
179.
[71] Từ nay, vị linh hướng ngài chọn là cha Simon Hallé, tu sĩ dòng Bé Mọn. Tuy nhiên, cha Hayneuve dòng Tên, vị
linh hướng đầu tiên của ngài “vẫn tiếp tục
bảo ban ngài với lòng bác ái” (X. Brisacier s.193).
[77] “Il est bien plus juste, Seigneur, que je vous donne
un pouvoir absolu sur mon corps et mon sang pour en disposer tout comme il vous
plaira. Soyez donc désormais, ô mon Dieu, le sacrificateur de mon corps et de
mon sang comme une chose qui est entièrement à vous, et sur laquelle je ne
prétends plus rien, sinon que d’être le ministre de vos sacrés vouloirs pour
agir sur lui conformément à ce que vous m’ordonnerez” : AMEP, tập 121, trang 756 . Bản dịch của Antôn Maria Trương
Văn Tiến.