Đức cha Giuse Đinh Đức Đạo: Đời sống như cuộc chuẩn bị đến trước tòa Chúa
Đức cha Giuse Đinh Đức Đạo: Đời sống như cuộc chuẩn bị đến trước Tòa Chúa
Quý Cha và quý Tu sĩ rất thân mến,
Trong truyền thống
của Hội Thánh, tháng 11 được dành riêng để cầu nguyện cho linh hồn các tín hữu
đã qua đời. Truyền thống đạo đức này được các tín hữu Việt Nam thực hiện cách
chân thành và rất sốt sắng nhờ tâm tình đạo Hiếu đã thấm nhuần sâu đậm lâu đời
trong văn hoá người Việt. Theo đó, phần lớn các giáo xứ trong giáo phận còn tổ
chức Thánh Lễ tại nghĩa trang giáo xứ vào ngày 02 tháng 11 để anh chị em giáo
dân có thể viếng mộ Ông Bà, Cha Mẹ và tham dự Thánh Lễ cầu nguyện cho các ngài
cách sốt sắng hơn.
Đứng bên cạnh nấm
mồ của người thân yêu, nhất là trong Thánh Lễ, người ta không thể không nghĩ
đến sự thật là chính mình cũng sẽ có ngày nằm xuống và phải đến trình diện
trước Tòa Chúa. Trong viễn tượng đó, một câu hỏi hiện ra trong đầu óc: “Liệu
khi đến trước Tòa Chúa, tôi sẽ được an vui hạnh phúc hay sẽ đứng trơ trẽn, bẽ
bàng hoặc còn run rẩy, khiếp sợ?” Trong ý hướng đó, tôi xin chia sẻ với quý Cha
và quý Tu sĩ đôi điều suy gẫm từ một số đoạn Sách Thánh về cuộc phán xét chung
để nhận ra những điều cần chuẩn bị ngay từ bây giờ, mong chờ ngày đó sẽ là ngày
vui mừng, hạnh phúc, qua đề tài: “Đời
sống như cuộc chuẩn bị đến trước Tòa Chúa”.
1. Dụ ngôn cuộc phán xét chung
Bấy giờ Người sẽ ngự lên ngai vinh hiển của Người. Các
dân thiên hạ sẽ được tập hợp trước mặt Người, và Người sẽ tách biệt họ với
nhau, như mục tử tách biệt chiên với dê. Người sẽ cho chiên đứng bên phải
Người, còn dê ở bên trái. Bấy giờ Đức Vua sẽ phán cùng những người ở bên phải
rằng: “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho
các ngươi… Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống;
Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc;
Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han”... “Ta
bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé
nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy.” Rồi Đức Vua sẽ phán
cùng những người ở bên trái rằng: “Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt
Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó, vì
xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn; Ta khát, các ngươi đã không cho
uống…”.Thế là họ ra đi để chịu cực hình muôn kiếp, còn những người công chính
ra đi để hưởng sự sống muôn đời.” (Mt 25,31-46).
Câu hỏi mỗi người
phải đặt ra cho chính mình là: Trong ngày đó, tôi sẽ được đứng bên phải hay sẽ
phải đứng bên trái, sẽ được nghe những lời an ủi “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn
cho các ngươi” hay lời kết án đáng kinh sợ “Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi
dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó”. Câu trả lời tùy thuộc
vào tinh thần và nếp sống hiện tại của mỗi người. Đó là tinh thần và nếp sống
yêu thương hay ích kỷ trước tha nhân với những nhu cầu cụ thể của họ.
Những trường hợp
được kể trong dụ ngôn chỉ là một số trường hợp tượng trưng, cần phải được áp
dụng thích hợp tùy theo thời đại và hoàn cảnh của mỗi người. Thời đại chúng ta
đang sống, lòng thương người có thể được áp dụng theo chỉ dẫn của kinh Mười bốn mối: “Thương người có mười
bốn mối, thương xác bảy mối:
Thứ nhất: Cho kẻ đói ăn, Thứ hai: Cho kẻ khát uống, Thứ ba: Cho kẻ rách
rưới ăn mặc, Thứ bốn: Viếng kẻ liệt cùng kẻ tù rạc, Thứ năm: Cho khách đỗ
nhà, Thứ sáu: Chuộc kẻ làm tôi, Thứ bảy: Chôn xác kẻ chết. Thương
linh hồn bảy mối: Thứ nhất: Lấy lời lành mà khuyên người, Thứ hai:
Mở dậy kẻ mê muội, Thứ ba: Yên ủi kẻ âu lo, Thứ bốn: Răn bảo kẻ có tội,
Thứ năm: Tha kẻ dể ta, Thứ sáu: Nhịn kẻ mất lòng ta, Thứ bảy: Cầu cho kẻ
sống và kẻ chết.”
Nỗ lực thực hiện mười bốn mối thương người sẽ tạo nên một con người với
tư cách và nếp sống thương yêu theo tinh thần của bài dụ ngôn nói trên về cuộc
phán xét chung. Riêng đối với các linh mục và tu sĩ chúng ta, bảy mối Thương linh hồn cần được để ý hơn
vì có lẽ chính ở bình diện này người ta có nhiều sai sót. Nămmối thương linh
hồn “Lấy lời lành mà khuyên người”, “Mở dậy kẻ mê muội”, “Răn bảo kẻ có tội”,
“Tha kẻ dể ta” và “Nhịn kẻ mất lòng ta”đều đặt lòng thươngngười trong tương
quan với những con người có cách suy nghĩ khác biệt hoặc sai lầm, những người
yếu đuối, tội lỗi và có khi còn làm cho ta mất lòng và mất danh dự. Đối với
những người này, lòng thương người của chúng ta bị thử thách nặng nề và dễ dẫn
đến những thái độ và hành động hoàn toàn trái ngược. Với danh nghĩa bảo vệ sự
thật, bảo vệ công bằng hoặc nhân danh bổn phận phải hướng dẫn và dạy bảo, không
thiếu những linh mục và tu sĩ lỗi đức bác ái, có khi còn phạm tội dùng bạo lực,
ít nữa bằng lời nói và thái độ, làm mất danh dự của một người hay cả gia đình,
họ hàng người ta. Nhân dịp mừng Năm Thánh 2000, Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan
Phaolô II, đã kêu gọi ăn năn hối cải vì nhiều con cái của Giáo Hội đã dùng
“những phương pháp bất khoan dung và ngay cả bạo lực” để phục vụ sự thật. [X.
Tông thư Ngàn Năm Thứ Ba đang đến,
số 3]
Trong tinh thần đó,
tôi xin ghi lại đây thái độ thiếu lòng thương người đã để lại nỗi khắc khoải
trong tâm hồn của một linh mục và có thể còn để lại hậu quả rất tai hại trong
suốt cuộc đời còn lại của một em bé. Câu chuyện được kể lại như sau:
Hôm nay là ngày Chúa nhật: cha phó làm lễ sáng. Mình đi
xung quanh nhà thờ, để tạo bầu khí trang nghiêm cho giờ lễ. Nhà thờ chưa đầy
người, thế mà có một chú bé đứng chầu rìa ở bên cửa hông. Mình vỗ vai em:“Con
vô đi, trong kia còn chỗ”. Em quay ngoắt một cái, chạy vọt xuống cửa phía dưới.
Lại đứng chầu rìa. Lòng tự ái lãnh đạo bốc lên tới lỗ mũi. Mình dằn cơn nóng
xuống, thủng thỉnh đi theo hắn. Mình lại vỗ vai hắn: “Trong kia còn nhiều chỗ
lắm”. Hắn chuồn. Mình nắm tay hắn kéo vô. Hắn dạng chân chống chỏi. Nhân đức
hiền lành xì ra ngoài hết. Mình nghiến răng lại, hai bàn tay sắt xiết hai vai
hắn: “Vô không?”. Hắn tỉnh queo, nhỏng mỏ: “Con đi lễ chứ có làm gì đâu mà cha
làm hung làm dữ”. Mình thả lỏng hai bàn tay. Hắn dõng dạc bước ra cổng, rồi
biến mất trong dòng người.
Có lẽ hắn sẽ không bao giờ trở
lại nữa. Mình nhìn lên bàn thờ, nhìn lên nhà tạm, rồi nhìn lên cây thánh giá.
Ánh mắt của mình không dừng lại được ở bất cứ nơi nào. Nó đành nhắm lại, vì xấu
hổ.
Thằng cu tí đã cho mình một bài học xứng
đáng. Nó là thầy của mình. Thầy ơi, vì con mà thầy đã từ giã thánh đường; vì
con mà có lẽ thầy sẽ bỏ đạo. Xin thầy hãy trở lại, để lương tâm của con tìm
được sự bình an. [Lm. Ngô phúc Hậu, Nhật ký Truyền giáo, NXB Tôn giáo,
Hà Nội 2010, trg 140.]
Có những giáo hữu
ngoan đạo đã trở thành kẻ thù của Giáo Hội chỉ vì bị coi thường, bị xúc phạm,
bị sỉ nhục, nhất là khi bị sỉ nhục trước công chúng, nói chi nếu đó lại là
những người ngoại đạo. Có nhiều người ta thán: cha này, cha kia hay chửi bới và
nói xéo trên tòa giảng, quát tháo cả với những người đáng tuổi ông nội mình…
Cũng có người than phiền về nữ tu khó tính, phạt các em quá ác… Có thể cha và
nữ tu đó không còn cảm thấy áy náy về những lời nói hay hành xử của mình xúc
phạm đến tha nhân vì nó đã trở thành thói quen. Nếu chúng ta có lòng thương
người thực sự và nhạy bén, chúng ta sẽ dễ dàng nhận ra những dấu hiệu đau khổ
ẩn hiện trên nét mặt hay cử chỉ của tha nhân mà ý thức về thực trạng thiếu lòng
thương người của mình mà sửa đổi.
Mối thương người
“Yên ủi kẻ âu lo” là lời nhắc nhở để chúng ta nhìn lại tâm hồn và cách hành xử
trong sứ vụ tông đồ của mình. Để yên ủi kẻ âu lo, cần phải nhận ra người đang
âu lo và phải có lòng với người đó. Dụ ngôn người Samaritanô nhân hậu (x. Lc
10,25-37) kể câu chuyện một người từ Giêrusalem xuống Giêrikhô. Giữa đường,
người này bị quân cướp đánh trọng thương, lấy hết của cải và bỏ mặc người ấy
nửa sống, nửa chết. Một vị tư tế tới nơi, rẽ sang một bên và đi qua; một thầy
Lêvi tới đó, cũng rẽ sang một bên và đi qua. Sau cùng, một người xứ Samaria tới
nơi đó, thấy người bị trọng thương, ông chạnh lòng thương, đỡ người bị thương lên lưng lừa, đưa về quán trọ
để chữa trị.
Thầy tư tế và thầy
Lêvi thấy người bị thương mà như không thấy. Lý do của thái độ này có thể có
nhiều, nhưng lý do chính yếu là không biết chạnh lòng thương. Thực tại vô cảm như vậy cũng đang xảy ra đầy dẫy
trong xã hội và cả trong môi trường Giáo Hội. Người ta nại vào nhiều lý do,
nhưng vấn đề căn bản vẫn là con tim đã chai đá hóa vô cảm nên không biết chạnh lòng thương, không cảm nhận đau
khổ, những lo âu của tha nhân. Như thế làm sao “Yên ủi kẻ âu lo”?
2. Dụ ngôn lúa mì và cỏ lùng
Đức Giêsu trình bày cho dân chúng nghe một dụ ngôn khác:
“Nước Trời ví như chuyện người kia gieo giống tốt trong ruộng mình. Khi mọi
người đang ngủ, thì kẻ thù của ông đến gieo thêm cỏ lùng vào giữa lúa, rồi đi
mất. Khi lúa mọc lên và trổ bông, thì cỏ lùng cũng xuất hiện”. Đầy tớ mới đến
thưa chủ nhà rằng: “Thưa ông, không phải ông đã gieo giống tốt trong ruộng ông
sao? Thế thì cỏ lùng ở đâu mà ra vậy?” Ông đáp: “Kẻ thù đã làm đó!”Đầy tớ
nói:“Vậy ông có muốn chúng tôi ra đi gom lại không?” Ông đáp: “Đừng, sợ rằng
khi gom cỏ lùng, các anh làm bật luôn rễ lúa. Cứ để cả hai cùng lớn lên cho tới
mùa gặt. Đến ngày mùa, tôi sẽ bảo thợ gặt: hãy gom cỏ lùng lại, bó thành bó mà
đốt đi, còn lúa, thì hãy thu vào kho lẫm cho tôi...
Vậy, như người ta nhặt cỏ lùng rồi lấy lửa đốt đi thế
nào, thì đến ngày tận thế cũng sẽ xảy ra như vậy. Con Người sẽ sai các thiên
thần của Người tập trung mọi kẻ làm gương mù gương xấu và mọi kẻ làm điều gian
ác, mà tống ra khỏi Nước của Người, rồi quăng chúng vào lò lửa; ở đó, chúng sẽ
phải khóc lóc nghiến răng. Bấy giờ người công chính sẽ chói lọi như mặt trời,
trong Nước của Cha họ. Ai có tai thì nghe.” (Mt
13, 24-43).
Dụ ngôn này được
các học giả Thánh Kinh đặt tên là dụ ngôn “Lúa mì và cỏ lùng”, nhưng nếu muốn
diễn tả ý nghĩa của dụ ngôn, chúng ta phải đặt tên là dụ ngôn “Lòng nhân từ
nhẫn nại của Thiên Chúa”.
Ai trồng rau, trồng
lúa đều phải liên tục làm cỏ, vì cỏ dại mọc mau hơn rau, hơn lúa; chúng có thể
làm ngộp rau, ngộp lúa và còn ăn hết màu mỡ của đất, làm cho lúa không thể tốt
và rau không thể tươi. Hiểu như thế thì thái độ của ông chủ ruộng trong dụ ngôn
là thái độ khó hiểu, có thể nói là vô lý.Tuy nhiên, qua những điều xem ra vô lý
theo cách suy nghĩ của loài người, dụ ngôn càng làm nổi bật “cái lý” của Thiên
Chúa. Đó là cái lý của tình yêu, của lòng thương xót, của sự kiên nhẫn yêu
thương: “Cha của anh em, Đấng ngự trên
trời, không muốn cho một ai trong những kẻ bé mọn này phải hư mất.” (Mt
18,14). Ngài kiên nhẫn chờ đợi kẻ có tội ăn năn hối cải để được sống: “Ta lấy mạng sống Ta mà thề -sấm ngôn của Đức
Chúa là Chúa Thượng- Ta chẳng vui gì khi kẻ gian ác phải chết, nhưng vui khi nó
thay đổi đường lối để được sống.” (Ed 33,11).
Trong tình trạng là
kẻ tội lỗi, dụ ngôn khơi lên trong chúng ta niềm hy vọng và hân hoan vì Thiên
Chúa không những có lòng nhân từ, mà Ngài còn nhân từ trong kiên nhẫn, chờ đợi
người tội lỗi ăn năn hối cải. Niềm hy vọng vào lòng nhân từ kiên nhẫn của Thiên
Chúa thúc đẩy chúng ta ăn năn sửa mình để đáp lại lòng thương xót của Ngài và
để khỏi bị “tống ra khỏi Nước của Người,
rồi bị quăng vào lò lửa; ở đó, sẽ phải khóc lóc nghiến răng”.
Lòng nhân từ của
Chúa kiên nhẫn chờ đợi người tội lỗi ăn năn trở về đặt chúng ta trong vị thế
sống chung với những người tội lỗi: lúa mì phải sống chung với cỏ lùng. Trong
hoàn cảnh này lúa mì phải giữ mình để không trở thành cỏ lùng. Trong cuộc đời,
lắm khi những người lừa đảo bất công, làm chuyện bất lương lại thành công giàu
có và có nếp sống hưởng thụ đầy sức quyến rũ. Chính vì vậy, không thiếu trường
hợp các môn đệ Chúa yếu lòng, chạy theo thói đời, áp dụng những phương pháp thế
gian, biện minh cho những thói tục không lành mạnh: cũng hưởng thụ, ăn nhậu vui
chơi, cũng chửi bới thóa mạ tha nhân, cũng tình ngang nghĩa trái… đánh mất lòng
trong sạch và mất luôn căn tính của mình.Nhiều đoạn Sách Thánh đã cảnh báo về
nguy cơ này, ở đây chúng ta chỉ trích một đoạn sách cảnh báo cách tích cực:
“Phúc thay người chẳng nghe theo lời bọn ác nhân, chẳng
bước vào đường quân tội lỗi, không nhập bọn với phường ngạo mạn kiêu căng,
nhưng vui thú với lề luật CHÚA, nhẩm đi nhẩm lại suốt đêm ngày” (Tv 1,1-2)
Hoàn cảnh sống chung với những người tội lỗi còn đòi khả năng chịu đựng đau khổ
do tội lỗi của họ gây ra để cứu rỗi họ. Đây là tình yêu cứu độ Chúa đã ký thác
nơi chúng ta. Đứng trước những đau khổ bất công, phản ứng tự nhiên của con
người là muốn cho những người gây ra bất công bị trừng phạt nghiêm khắc. Nhưng,
là tín hữu, nhất là linh mục và tu sĩ, chúng ta phải học nơi Chúa, để cho lòng
nhân từ và sự kiên nhẫn của Ngài thấm nhuần vào tim óc chúng ta, những người đã
dâng hiến trọn vẹn cuộc đời mình cho Chúa để trở nên đồng hình đồng dạng với
Người. Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót, luôn nuôi hy vọng cứu độ mọi
người, bởi lẽ cỏ lùng không thể biến thành lúa mì, nhưng kẻ xấu có thể thành
người tốt.Nếu chúng ta chỉ biết kết án và loại trừ, gây thù hận, liệu chúng ta
có xứng đáng được gọi là môn đệ của Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế không và chúng ta
sẽ trả lời thế nào khi đến trước Tòa Chúa, Đấng không muốn cho một ai phải hư
mất (x. Mt 18,14), Đấng đã “đến
không phải để xét xử thế gian, nhưng để cứu thế gian.” (Ga 12,47; x. Mt
18,11).
3. Dụ ngôn người môn đệ chân chính
Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: “Lạy Chúa! lạy Chúa!”
là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng
ngự trên trời, mới được vào mà thôi. Trong ngày ấy, nhiều người sẽ thưa với
Thầy rằng: “Lạy Chúa, lạy Chúa, nào chúng tôi đã chẳng từng nhân danh Chúa mà
nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ đó
sao?” Và bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với họ: “Ta không hề biết các ngươi; xéo đi
cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác!” (Mt
7,21–23).
Áp dụng vào những
công việc mục vụ hiện nay, chúng ta có thể diễn tả đoạn Sách Thánh như sau:
“Trong ngày ấy, nhiều người sẽ nói với Ta rằng: ‘Lạy Chúa, con đã xây mấy nhà
thờ rộng lớn để làm sáng danh Chúa, mấy nhà giáo lý có nhiều phòng học cho
thiếu nhi và có chỗ sinh hoạt cho các giới’; người khác thì thưa: ‘Lạy
Chúa, con đã làm nhiều nhà tình thương, con đã hô hào lạc quyên giúp đỡ người
nghèo, con đã đi thăm tận nhà những ông già bà lão cô đơn, con còn can
đảm lên tiếng bênh vực công lý’; người khác lại nói: ‘Lạy Chúa, con đã tổ chức
Thánh Lễ rất trang trọng, con dạy giáo lý mọi người cảm phục, con còn viết
những bài suy niệm, những bài nghiên cứu giá trị được nhiều người khen ngợi và
giảng giải rất hấp dẫn, lôi cuốn đám đông…’ Theo bài dụ ngôn, lúc đó biết đâu
Chúa chẳng nói: ‘Ta không hề biết các
ngươi; xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác!’”
Những người đã làm
điều thiện, điều tốt, có ích cho tha nhân mà bị Chúa quở trách nặng nề và gọi
là “bọn làm điều gian ác”; với những
người đã làm việc thiện nhân danh Chúa, Chúa lại nói: “Ta không hề biết các ngươi” và Chúa đuổi: “Xéo đi cho khuất mắt Ta”. Tại sao Chúa lại quở trách họ nặng
lời như vậy? Lý do là họ đã lấy danh nghĩa Chúa để phục vụ chính mình, đã dùng
công việc của Chúa để thực hiện một chương trình nhân loại, một tham vọng cá
nhân. Tựu trung vấn đề căn bản là “cái lòng” của mỗi người. Lời nói có thể hay,
việc làm có thể đẹp, nhưng lòng không tốt thì tất cả chỉ là dáng vẻ bề ngoài.
Đây là vấn đề nội tâm đã được Chúa nói đến nhiều lần trong Tin Mừng: “Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người
Pharisêu giả hình! Các người giống như mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ đẹp, nhưng
bên trong thì đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô uế.” (Mt 23,27).Vì vậy,
để cho ngày đến trước Tòa Chúa được hạnh phúc, cần phải biết nhận diện và thanh
luyện những lý do thầm kín trong lòng để tâm hồn và việc làm đều trong sáng và
phản ánh tinh thần của Chúa.
Kính thưa quý Cha và quý Tu sĩ, trong viễn tượng của đời sống như cuộc chuẩn bị
đến trước Tòa Chúa, chúng ta cùng cầu xin Đức Mẹ là Mẹ của chúng ta, hướng dẫn,
an ủi và nâng đỡ chúng ta trong hành trình dấn thân sống đẹp lòng Chúa mỗi giây
phút để an bình và hạnh phúc trông chờ ngày đi gặp Chúa.
Thân ái chào quý
Cha và quý Tu sĩ.
+ Giuse Đinh Đức
Đạo
Giám mục Giáo phận
Xuân Lộc
Nguồn: Giáo phận Xuân Lộc
- Phỏng vấn Đức Hồng y Giorgio Marengo, Giám mục Phủ doãn tông tòa Ulaanbaatar - Mông Cổ ( 18/03/2024)
- Đức Hồng Y Giorgio Marengo viếng thăm và tri ân Giáo hội Công giáo Việt Nam ( 17/03/2024)
- Hội thảo: Trí tuệ nhân tạo – Cơ hội và thách đố đối với Kitô hữu Việt Nam ( 03/03/2024)
- Hội thảo về mục vụ di dân Việt Nam tại Nhật Bản ( 02/03/2024)
- Giáo phận Phan Thiết – Thư mục vụ tháng 03/2024 ( 01/03/2024)
- Tâm Tình Mục Tử - tháng 3 năm 2024: Mùa Chay – Nên Thánh ( 01/03/2024)
- Giáo phận Long Xuyên – Thư mục vụ tháng 03/2024 ( 27/02/2024)
- Đức cha Chủ tịch Ủy ban Truyền thông khởi động hệ thống C-Mate - Bước tiến mới của Truyền thông Giáo phận Phú Cường ( 27/02/2024)
- Làm phép cơ sở mới của Đại Chủng viện thánh Giuse Hà Nội ( 26/02/2024)
- Giới thiệu Bản tin Hiệp Thông của HĐGMVN số 139 (tháng 1 & 2 năm 2024) - Truyền thông: xây dựng và củng cố sự Hiệp thông ( 25/02/2024)