Đọc
sách
Mẹ Têrêsa
Hãy
đến làm ánh sáng của Ta
Những
thư từ và ghi chép của “Vị Thánh thành
Người dịch:
Nhà xuất bản Văn học, tháng 10.2008
Nguyên tác: Mother Teresa – Come to be my light
Do Brian Kolodiejchuk, Hội dòng Thừa sai Bác ái, biên tập và chú thích (2007)
Sách viết về nhân vật quen gọi là Mẹ
Têrêsa và được dịch sang tiếng Việt thì nhiều, nhưng đây có thể được xem là quyển
sách đầu tiên viết về “khía cạnh thâm sâu trong mối quan hệ của bà với Chúa”.
Và có thể nói chính mối quan hệ này đã là nền tảng, động lực của một cuộc đời đã
tạo được sự thán phục của thế giới.
Sách do một linh mục dòng Thừa sai Bác ái, người để cử phong thánh
cho Chân phước Têrêsa thành Calcutta, Giám đốc Trung tâm Mẹ Têrêsa, biên soạn
và chú thích, chủ yếu từ những thư từ và ghi chép của chính vị chân phước và của
một số Giám mục, linh mục, cha linh hướng…, những người trực tiếp hay gián tiếp
có quan hệ với công việc của bà hay được bà mời giúp về mặt thiêng liêng. Bởi vậy,
tập sách có thể giúp người đọc khám phá chiều sâu tâm hồn của một Thừa sai bác ái, hay “khía cạnh tâm linh
của công việc” tông đồ rao giảng tình thương của Chúa bằng hành động tình
thương của con người. Bản dịch tiếng Việt của Cam Thảo dễ đọc, không xa lạ với
độc giả Công giáo.
Sách đề cập đến ba nội dung chính, cũng
là ba giai đoạn chính của cuộc đời tu trì và tông đồ của Mẹ Têrêsa: (1) Nữ tu dòng
Đức Trinh nữ Maria, cũng gọi là dòng Loreto, (2) Việc thành lập dòng Thừa sai bác ái và (3) “Bóng tối”, trải
nghiệm thần bí của Mẹ Têrêsa. Và đây cũng là ba phần của tập sách gồm mười ba
chương: chương 1 và 2 dành cho nội dung thứ nhất; chương 3 đến chương 7, về
linh hứng bà có được để đi đến quyết định thành lập Hội dòng Thừa sai Bác ái, việc bà rời bỏ dòng
Loreto; chương 8 đến chương 13 đề cập đến “bóng tối” nội tâm. Con số trong ngoặc
đơn là số trang của bản dịch.
1. Ơn gọi nữ tu (các chương 1 và 2)
Gonxha Agnes Bojaxhiu, sau này được gọi
là Mẹ Têrêsa, sinh ra là người Albania, ngày 26/8/1910, lớn lên tại Skopje, một
thị trấn nhỏ của Serbia; năm 18 tuổi, gia nhập dòng Đức Trinh nữ Maria chuyên lo giáo dục, tại Ireland, vào tháng Mười
năm 1928, nộp đơn xin đi truyền giáo ở Bengal, tới Calcutta đầu năm 1929, tuyên
khấn lần đầu năm 1931, tuyên khấn trọn đời năm 1937 tại Darjeeling, dạy học tại
trường Trung học đệ nhất cấp ở Bengali từ năm 1931 cho tới ra khỏi dòng Loreto
và thành lập Hội dòng Thừa sai bác ái
năm 1948, làm việc tại Calcutta và qua đời tại đây, ngày 5/9/1997.
Cuộc đời nữ tu của Bà đã bắt đầu một cách
thật đơn giản: lòng mong ước thực hiện hết mình tiếng gọi đầu đời mà mọi người
kitô hữu đều nằm lòng và cũng là điều răn duy nhất gồm tóm mọi điều răn khác
dành cho người muốn đi con đường trọn lành, đó là mến Chúa và yêu người đồng loại.
Bà đã chọn con đường vào tu viện, tình nguyện sống theo những lời khấn giúp người
tu sĩ dâng trọn đời mình cho Chúa, tình nguyện xin đi truyền giáo ở một nơi xa
xôi vốn bị xem là “có đi mà không có về” vì lòng yêu mến những đồng loại chưa
biết đến tình yêu thương của Chúa.
2. “Ơn gọi trong ơn gọi” (Các chương 3 tới 7)
Nhưng tiếng gọi đã không dừng lại ở đó. Bà
được mời gọi đi tiếp, và trên một con đường mới: tháng 9 năm 1946, sau tám ngày
tĩnh tâm, bà được thôi thúc dâng mình cho Chúa, - một cách “không giới hạn”
(118)-, đang hiện diện nơi người đồng loại giờ đây mang rõ nét của những người
nghèo, những người ăn xin, những người bệnh, người đang chết trong cô đơn trong
những túp lều bẩn thỉu, những trẻ em đường phố, ở một nơi cụ thể là các khu nhà
ổ chuột ở Ấn Độ.
Nhưng những bước đi cụ thể để thực hiện sự
thôi thúc này lại chẳng mấy dễ dàng. Hai thiện chí đôi khi cũng có thể là cản
trở của nhau. Để thực hiện công việc mới, nữ tu Têrêsa phải rời bỏ dòng Loreto,
bỏ các lời khấn cụ thể của dòng. Bề trên muốn bà chỉ bỏ tạm thời. Cha Van Exem,
linh hướng của bà, đã khuyên bà dùng giải pháp xuất tu viện, nhưng vẫn duy trì
các lời khấn dòng Loreto để có thể trở lại dòng nếu dự án “công việc” của bà
không thành công. Nhưng nữ tu Têrêsa thì lại cương quyết rời hẳn khỏi dòng
Loreto. Đối với bà, việc mở đường để bà có thể trở lại Loreto, như một biện
pháp an toàn cho bà, là không cần thiết. Bà lập luận: “Nếu linh hứng đó đến từ
Chúa, mà con tin chắc là đúng như thế, thì sẽ không có vấn đề thất bại” (121).
Tuy nhiên, các thư Bà viết cho Bề trên, cho Hồng y Bộ trưởng Thánh bộ phụ trách
Tu sĩ ở Roma, để xin “hoàn tục” và “thoát khỏi lời khấn buộc con với nhà Dòng”,
đều phải chờ đợi hết tháng này qua tháng nọ, mới được hồi âm. Thư bà viết cho Hồng
y Bộ trưởng đề ngày 7/2/1948, cũng phải đợi đến ngày 8/8/1948, tức vừa chẵn nửa
năm, Bà mới nhận được tin từ Roma cho biết Đức Giáo hoàng Piô XII, thông qua
Thánh bộ phụ trách Tu sĩ, cho phép bà rời dòng Loreto và bắt đầu sứ mạng mới của
bà, với phép “sống bên ngoài tu viện Loreto trong một năm hoặc ít hơn nếu thấy
như thế là đủ và được giữ các lời khấn của một nữ tu Loreto dưới sự quản lý của
Tổng giám mục Calcutta”.
3. Bóng tối, ‘người bạn đồng hành’ (Các chương 8 đến 13)
Ngày 17/8/1948, Maria Têrêsa, tên gọi mới
của bà, trong trang phục sari trắng
viền xanh, rời tu viện dòng Đức Trinh nữ
Maria dù ở đó bà đã “rất hạnh phúc khi được làm thành viên” của dòng (129),
lên đường bắt đầu cuộc sống của một nữ tu Truyền
giáo Bác ái, với năm rupi trong
túi, số tiền chỉ để nói lên cái nghèo của người đã chọn sống nghèo với người
nghèo, nhưng trong tim lại chất chứa cả một kho tàng niềm tin không gì lay chuyển
nổi: niềm tin ở Chúa và niềm tin tuyệt đối vào lời Người đã hứa với Bà hai năm
trước: “Đừng sợ - Ta sẽ luôn bên con… hãy yêu thương tin tưởng Ta – tuyệt đối
tin tưởng Ta” (135).
Lời hứa quả mới cần thiết cho bà làm sao!
Nó đã giúp bà bước đi vững vàng trong một thứ “bóng tối khủng khiếp” từng bám
chặt lấy bà suốt 50 năm cuộc đời còn lại của bà. Hai ngày trước khi bỏ Loreto để
lên đường tới Calcutta bắt đầu công việc mới, bà viết cho Đức Tổng giám mục
Périer, người được Tòa thánh giao trách nhiệm “quản lý” bà và công việc của bà:
“Con sẽ đi bằng tầu chở thư Punjab vào tối thứ Ba – Tất cả đều thật tăm tối –
nhiều nước mắt – nhưng con đi theo sự lựa chọn tự do của con cùng với lời chúc
phúc của đức vâng lời” (134).
Ngày 21/12, Maria Têrêsa lần đầu tiên bước
chân vào các khu ổ chuột với tư cách một nữ tu Truyền giáo Bác ái. Ngày 19/3/1949 Shubashini Das, Xơ Agnes sau
này, tới cộng tác với bà. Tháng 6/1950, số người trong cộng đoàn lên đến 12 người.
Ngày 7/10/1950, ngày lễ Đức Mẹ Mân Côi, Hội dòng Thừa sai Bác ái tại
Những thành quả có thể đếm được bằng những
con số này lại đã không che khuất được “bóng tối khủng khiếp” cứ dai dẳng đeo bám
lấy bà: Gần một năm sau, “linh hồn con vẫn chìm trong bóng tối và u buồn sâu thẳm”
(170). Tháng giêng năm 1955, bà đã ghi nhận một yếu tố mới trong trải nghiệm của
mình: sự cô đơn. “Sự cô đơn, người bạn đồng hành của bà, từ thời điểm này trở
đi, là kết quả của cảm giác bị tách rời khỏi Chúa và những người bà tin tưởng
nhất” (174). Tháng hai năm 1956, bà hé mở thêm: “Con mong mỏi –với một niềm
mong mỏi đau đớn được là tất cả cho Chúa – để nên thánh đến mức Chúa Giêsu có
thể sống trọn vẹn cuộc đời Người trong con. Con càng cần Người – Người lại ít cần
con. Con muốn yêu thương Người như Người chưa từng được yêu bao giờ - thế nhưng
lại có sự xa cách đó, - sự trống rỗng khủng khiếp đó, cảm giác thiếu vắng Chúa
đó” (181). “Có quá nhiều mâu thuẫn trong lòng con. –Sự mong mỏi sâu sắc đối với
Chúa – sâu sắc đến mức cảm thấy đau đớn – nỗi đau tiếp diễn – nhưng không được
Chúa cần đến – bị từ chối – trống rỗng – không có đức tin – không tình yêu –
không lòng nhiệt huyết” (187). Đến cái độ “Con hiểu được một ít những đau đớn ở
hỏa ngục – không có Chúa” (190). “Trong lòng con, … nó tăm tối, đau đớn, khủng
khiếp như thế nào. Cảm giác của con thật là xảo trá. – Con cảm thấy muốn ‘từ chối
Người’ nhưng điều lớn nhất và khó khăn nhất là niềm mong mỏi khủng khiếp về
Chúa” (270).
“Yêu
bóng tối”
Những người có trách nhiệm giúp bà đã chỉ
còn biết đưa ra nguyên tắc của con đường thiêng liêng để an ủi bà. Đức Tổng
giám mục đã trả lời bà với bản tóm lược lời dạy của Thánh Gioan Thánh giá về
“đêm tối” thiêng liêng: lòng mong mỏi chẳng bao giờ được thõa mãn trong thế giới
trần tục này, đơn giản là vì “Người là vô hạn còn chúng ta là hữu hạn” (182).
Bóng tối như một sự “thanh lọc” và “bảo vệ chống lại sự kiêu hãnh” trước thành
quả đạt được.
Linh mục Neuner đã trả lời thắc mắc của
bà: “Nó đơn thuần chỉ là bóng tối của đời sống thiêng liêng mà các bậc thầy về
đời sống thiêng liêng đều biết – dù tôi chưa bao giờ gặp trường hợp nào sâu đậm
và kéo dài lâu năm như của bà. Con người không có cách nào chữa trị. Chỉ có thể
chịu đựng nó được nhờ niềm tin vào sự có mặt của Chúa dù Người đang dấu mình và
với sự hiệp thông với Chúa Giêsu, Đấng đã phải vác gánh nặng và bóng tối của thế
giới tội lỗi trong cuộc Khổ nạn để cứu rỗi chúng ta. Dấu hiệu chắc chắn cho thấy
sự hiện diện khuất mình của Thiên Chúa trong bóng tối này là cơn khát Chúa, sự
thèm muốn dù chỉ một tia ánh sáng của Người. Không ai có thể mong mỏi Chúa trừ
khi Chúa đang hiện hữu trong tim người đó” (235).
Những lời an ủi trên đây dẫu sao cũng đã
giúp bà “biết yêu bóng tối”: “Lần đầu tiên trong suốt 11 năm – con đã biết yêu
bóng tối đó…”. Và bà đã chấp nhận bóng tối ấy như một “khía cạnh tâm linh của
công việc” bà đang thực hiện cho người nghèo (236). “Trong ý định của Chúa thì
bà phải trải nghiệm phần nào cái thực tế đáng khiếp sợ trong một cuộc sống
không có Chúa, mà bà ví như địa ngục, hậu quả của việc chối bỏ tình yêu và lòng
nhân từ của Chúa. Trải nghiệm này đã làm tăng cơn khát không nguôi của bà được
cứu các linh hồn bằng cách giúp đỡ từng người để họ biết về Chúa và tình yêu của
Người và yêu thương đáp lại tình yêu đó của Người” (275). “Nếu có địa ngục, hẳn
chính là đây” (276).
Tuy từ năm 1969, 1970, bà không còn nói
gì đến bóng tối đó nữa, và linh mục Neuner đã có thể viết “Tôi cảm nhận bà ấy
đã tìm thấy đường đi và không cần giúp đỡ nữa” (292), nhưng điều đó không có nghĩa
là bà đã được giải thoát khỏi cái dáng dấp địa ngục của bóng tối, vì bóng tối vẫn
luôn siết chặt trong lòng bà (293). Bà ý thức rõ mình đang đi con đường của thập
giá, của khổ nạn dẫn đến sự cứu độ. Nơi con đường ấy, trước bà, Đấng bà yêu quý
và mong mỏi không nguôi cũng đã bị đè nặng dưới bóng của tối tăm còn nặng hơn cả
thập giá khiến Người phải thốt lên: “Abba, lạy Cha, Cha có thể làm mọi sự, xin
cất chén này đi khỏi con” (Mc 14, 36) và với giọng xem ra còn tối tăm hơn nữa
khi Người sắp sửa hoàn tất “công việc” trên thập giá: “Lạy Thiên Chúa tôi, lạy
Thiên Chúa tôi, vì sao Người lại bỏ tôi” (Mc 15, 34).
Vị
thánh của “bóng tối”
Chúa, Đấng bà mong mỏi, tuy đã không xuất
hiện với bà như một sự yên ủi, như một phần thưởng cho riêng tâm hồn bà, nhưng
vẫn có đó và bà có thể nhận ra mỗi khi làm “công việc” của bà. “Từ lúc bóng tối
xuất hiện và làm tiêu tan cảm giác về sự có mặt của Chúa, bà đã nhận ra Người
dưới nỗi đau của người nghèo: ‘Khi ta đi qua các khu nhà ổ chuột hoặc bước chân
vào các túp lều tăm tối - ở đó Chúa thực sự hiện hữu’. ‘Các túp lều tăm tối’ đó
đã trở thành nơi gặp gỡ đặc biệt với Người. Nơi đó Bà muốn được yêu thương Người
đến tận cùng” (186). “Khi cầu nguyện, bà hướng đến Chúa Giêsu và bộc lộ niềm
mong mỏi đớn đau của bà dành cho Người. Nhưng chỉ khi ở với người nghèo bà mới
cảm nhận cách rõ nét sự có mặt của Người. Ở đó, bà mới cảm nhận Người một cách
sống động và rất thật” (234).
Nhưng bóng tối, sự thiếu vắng, sự cô đơn
thiêng liêng bà cảm nhận trong tâm hồn lại không làm nhụt chí của bà. Bà luôn
mong mỏi và luôn tìm cách “thắp sáng tình yêu của Chúa Kitô trong túp lều tăm tối
của mỗi trái tim bị chôn vùi trong cảnh túng thiếu, cô đơn hay bị chối bỏ”
(204), thắp sáng tình yêu của Chúa Kitô nơi “người nghèo và trẻ em, người bệnh
và người sắp chết và những người bị hủi đang sống tại 52 trung tâm của chúng
con ở Calcutta” (203). Bà vẫn cố gắng hết sức để bước thêm một bước nữa, chứ
không dừng, bà thề sẽ mỉm cười với Khuôn Mặt Bị Che Khuất của Người giữa những
đau khổ này cho đến cuối cuộc đời (208). Bà vẫn tiếp tục vui vẻ và đầy lòng nhiệt
huyết. Một niềm vui thiêng liêng thực sự, bởi vì, “để trở thành một Thừa sai bác ái thực sự, các con phải là
một của lễ vui tươi” (176). Bà vẫn khẳng định sự phục tùng Thánh ý Chúa, vẫn
khuyên nhủ chị em, các cộng sự của bà: “Hãy sống tốt với nhau – Ta thà rằng các
con mắc sai lầm vì lòng tốt – hơn là tạo nên những sự kỳ diệu trong sự vô tâm”
(216).
Bóng tối trong lòng vì vắng bóng Đức
Kitô, nhưng bà lại là người làm lan tỏa ánh sáng tình yêu của Chúa ở những nơi
đau khổ nhất của thế giới này (332), tiếp tục là nguồn sáng và nguồn cảm hứng
cho mọi người (337). Cha van der Peet đã từng viết về bà: “Bất cứ khi nào tôi gặp
Mẹ Têrêsa, mọi e dè trong tôi đều biến mất. Tôi cảm thấy rất dễ chịu: ở bà tỏa
ra niềm vui và sự bình yên, ngay cả khi bà chia sẻ với tôi về bóng tối trong đời
sống thiêng liêng của bà” (295).
Nhiều cơ sở được thiết lập bên ngoài
Ánh
sáng chiếu trong thế giới tối tăm
Sau chuyến đi Roma, New York và
Washington , D. C., và cũng là chuyến đi cuối cùng, bà trở về Calcutta tháng
7/1997, mệt mỏi nơi thân xác. Và ngày 5/9/1997, lúc 9g30 tối, bà qua đời “trong
ngôi nhà mất điện và tất cả đều chìm vào bóng tối” (365).
Nhưng chẳng hề gì. Sự cố này đã không
ngăn cản được đông đảo người dân
Bởi lẽ, người ta có thể đọc được hàng chữ
trên một trong vô số các biểu ngữ được công dân của thành phố
Giáo hội đang chuẩn bị để phong thánh cho
Mẹ Têrêsa. “Nếu con được trở thành một vị thánh, -chắc chắn con sẽ là vị thánh
của ‘bóng tối’. Con sẽ ở xa thiên đàng – để thắp lên ánh sáng cho những người sống
trong bóng tối trên trái đất này” (Tuyên ngôn hành động của bà, 370-371). Một vị
thánh không tìm phần thưởng cho chính mình.
Kết luận
“Nhà truyền giáo giản dị, nhỏ bé và vô
danh” (224) này đã được hàng triệu người trên thế giới thán phục. Bà được trao Giải
Nobel Hòa bình năm 1979. Năm 1985, trước ảnh hưởng của bà, Tổng thư ký Liên hiệp
Quốc, Javier Perez de Cuellar, đã gọi bà là “người đàn bà quyền lực nhất thế giới”
(332). Điểm đến đầu tiên của Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II khi ngài tới Ấn Độ
đầu năm 1986 là Nirmal Hriday Ashram ở Kalighat mệnh danh là Ngôi nhà dành cho
những người sắp chết ở
Đọc Mẹ Têrêsa - Hãy đến làm ánh sáng của Ta, người đọc thêm xác tín: Mẹ Têrêsa đã đi trọn con đường “trọn lành” cả về mặt đạo lẫn mặt đời, nhưng không phải song song, kiểu đồng hành. Chính bởi vì bà đã đi trọn, đã sống hết mình ơn gọi làm người kitô hữu, bà đã được thế giới nhìn nhận là người đồng loại của loài người. Một con đường duy nhất đối với người kitô hữu.