Bình đẳng về quyền giữa người nam và người nữ
Bình đẳng về quyền giữa người nam và người nữ
(Nguyên
tác: “Égalité des droits entre hommes et femmes”, trong Conseil Pontifical pour
la Famille, Lexique des termes ambigus et controversés sur la famille, la vie
et les questions éthiques, Paris, Pierre Téqui, 2005, tr. 317- 321.)
Sự phân biệt về mặt sinh học và giới tính giữa
người nam và người nữ thường được viện dẫn để nhấn mạnh sự bất bình đẳng giữa
họ với nhau. Người nữ thì thấp kém hơn người nam, không chỉ về mặt thể lý mà
còn về mặt phẩm giá. Vì thế, người nữ phải chấp nhận lệ thuộc vào người nam, và
không nên cố sức tranh đua với người nam. Chúng ta hiểu lý do những phong trào
nữ quyền đã nổi lên để chống lại hình thức phân biệt đối xử sai lạc này. Thực
tế, việc phân biệt đối xử này dựa trên sự lẫn lộn lan tràn về bình đẳng và căn
tính. Chẳng có gì đòi buộc con người phải đồng nhất mới có thể trở nên bình
đẳng. Sự bình đẳng bao hàm cả ý tưởng khác biệt, đặc thù, độc đáo. Các cá thể
hiện hữu trong hình thái của một nhân vị. Mọi người đều thông dự cách duy nhất
vào sự hiện hữu của Thiên Chúa Tạo Hóa, và nhận được phẩm giá của mình từ sự
thông dự vào sự hiện hữu thần linh này. Bởi ý muốn của Đấng Tạo Hóa, con người
đã được tạo dựng theo hai giới tính, nam và nữ. Chính điều đó ban cấp cho những
con người khác biệt về mặt giới tính một phẩm giá bình đẳng, được làm nổi bật
nhờ nhân cách riêng của mỗi người.
1. Thông điệp của ĐGH Gio-an XXIII, Pacem in terris (1963), đã chào đón, như
một dấu chỉ lớn lao của thời đại chúng ta, sự tham gia của những người nữ trong
đời sống cộng đồng, và đòi hỏi của họ được nhìn nhận và đối xử như là những
nhân vị chứ không phải là những “công cụ”, trong đời sống cá nhân cũng như đời
sống xã hội (x. PT, số 41, cũng x. số
15).
Sau đó, đặc biệt là thời ĐGH Gio-an Phao-lô II,
Huấn quyền lặp lại nhiều lần chủ đề này. Sự nhìn nhận đầy đủ phẩm giá của phụ
nữ là đối tượng của một khát vọng sâu xa, được bày tỏ ở những mức độ khác nhau
trên khắp thế giới. Cần nắm bắt từ khát vọng này nguồn cảm hứng đầu tiên, được
nối kết với những đòi hỏi của Tin Mừng trong mức độ những đòi hỏi này luôn muốn
thấm nhập vào toàn thể lịch sử nhân loại ngày càng sống động hơn. Đôi khi khát
vọng như vậy được thể hiện bằng những hình thức hung hăng, nhưng không được vì
thế mà phủ nhận tính chính đáng của khát vọng. Không nghi ngờ gì nữa, nguồn gốc
của những hình thức hung hăng này phát xuất từ gánh nặng lâu đời của đau khổ,
tước đoạt và nhục nhã mà các phụ nữ thường đã và còn tiếp tục là nạn nhân.
Chính vì thế, việc ý thức về khát vọng được nhìn nhận phẩm giá riêng biệt đã
khơi lên những yêu sách bạo lực nơi một số phong trào nữ quyền. Hai yếu tố trí
thức và ý thức hệ cũng đã góp phần vào sự phẫn nộ này. Thật vậy, việc khẳng
định những quyền của phụ nữ đã vay mượn những khái niệm và ngôn ngữ nơi học
thuyết Mác-xít về đấu tranh giai cấp. Vì thế, sự khác biệt giữa người nam và
người nữ đã được trình bày như một đối kháng và một cạnh tranh. Hậu quả là sự
nghiệp của phụ nữ đã bị đồng hóa với cuộc đấu tranh chống những kẻ áp bức nhằm
giải phóng bản thân. Đàn ông là kẻ thống trị, và cần phải có một đối quyền nữ
giới chống lại sự thống trị này. Như thế người ta đã sa vào biện chứng buộc
phải đảo lộn các vai trò.
Với ý định giản lược các quan hệ nam-nữ vào trong
các mối tương quan thống trị, bề trên-bề dưới, người ta tự buộc mình phải phủ
nhận những nét phong phú đặc thù của nữ tính. Điển hình cho vấn đề này là ý
kiến của Simone de Beauvoir, theo đó “nữ
tính không phải là bản chất cũng chẳng phải là tự nhiên”, nhưng là một thực
tại văn hóa và lịch sử, có thể được biến đổi cách triệt để. Tuy nhiên, Simone
de Beauvoir thêm rằng, một “hoàn cảnh”
như thế đã được “tạo ra từ một số dữ kiện
sinh lý”. Chúng ta có thể tự hỏi phải chăng cuộc đấu tranh chống lại sự
thống trị của nam giới, được hiểu như thế, suy cho cùng lại chẳng che đậy sự
chối bỏ và sự thù hằn nữ tính của riêng mình, một loại nhị nguyên vô thức, một
loại chối từ chính thân xác mình.
Lược đồ đấu tranh có nguồn gốc Mác-xít thường được
liên kết với một dữ kiện ý thức hệ khác: khái niệm duy tự do cá nhân. Phụ nữ
đòi hỏi “những quyền giới tính và sinh
sản” của mình, hiểu như là những quyền của cá nhân gắn liền với sự tự lập
của riêng mình.
Về những vấn đề này, Kinh Thánh mang đến cho chúng
ta những ánh sáng quý giá. Thế nên trước tiên chúng ta cần tra cứu Kinh Thánh.
2. Lý trí tự nhiên đã có thể nhận ra ý nghĩa của
phẩm giá phụ nữ. Lý trí tự nhiên lại được củng cố thêm nhờ Lời Chúa, nguồn mặc
khải sự toàn vẹn và những hệ luận của phẩm giá phụ nữ. Chúng ta trích một vài
bản văn quan trọng trong Kinh Thánh. Trước hết là hai trình thuật về sáng tạo (St 1,27; 2,21-24). “Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình, Thiên Chúa sáng tạo
con người theo hình ảnh Thiên Chúa, Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ”.
Khi Thiên Chúa nhìn công trình của Người, “Thiên
Chúa thấy mọi sự Người đã làm ra quả là rất tốt đẹp” (St 1,31).
Theo hình ảnh Thiên Chúa có nghĩa con người là một
nhân vị, là “thụ tạo duy nhất ở trần gian
được Thiên Chúa dựng nên vì chính họ..." (GS, 24), như Công đồng
Va-ti-ca-nô II giải thích. Người nam cũng như người nữ đều là những nhân vị:
trong phẩm giá này, họ bình đẳng với nhau. Nguyên lý này soi sáng mọi cách đặt
vấn đề. Bản văn thêm vào lời giải thích rõ ràng có tầm quan trọng trên hết:
ngay từ ban đầu, Thiên Chúa '“sáng tạo
con người có nam có nữ”. Sự phân biệt giới tính là một dữ kiện tích cực, “quả là rất tốt đẹp”.
Trình thuật thứ hai giải thích đặc tính của sự
phân biệt giới tính vừa nêu: khi người nam thấy người nữ xuất hiện trước mặt
mình, người nam thốt lên một tiếng kêu đầy ngưỡng vọng. Nơi người nữ, người nam
nhận biết rằng xã hội của họ tạo nên mô hình hiệp thông đầu tiên: “Người đàn ông [...] gắn bó với vợ mình, và
cả hai thành một xương một thịt” (St
2,24). Công đồng giải thích hai bản văn cốt yếu này: “ Thiên Chúa đã không dựng nên con người cô độc [.]. Thật vậy, tự bản
tính thâm sâu của mình, con người là một hữu thể có xã hội tính [.]” (GS, 12). Và Công đồng thêm: “họ chỉ có thể gặp lại bản thân khi chân
thành trao ban chính mình” (GS,
24). Như thế, theo ý định sáng tạo của Thiên Chúa, người nam và người nữ là
những nhân vị, và với danh phận đầu tiên và nền tảng này, họ sở hữu một phẩm
giá bình đẳng. Sự phân biệt giới tính, nghĩa là sự khác biệt giữa họ, là phù
hợp với ý định của Thiên Chúa và là điều rất tốt đẹp. Thiên Chúa muốn sự khác
biệt giới tính và hướng sự khác biệt này đến mối hiệp thông với nhau, đến sự tự
hiến cho nhau. Ý nghĩa của khác biệt chính là bổ túc.
Bình đẳng, khác biệt trong bổ túc: đó là những yếu
tố cấu thành nguồn gốc của tính dục con người.
3. Kinh Thánh còn soi sáng cho chúng ta một chiều
kích khác của vấn đề: chiều kích lịch sử. Bởi tội lỗi, con người đã hội nhập
vào bản thân mình một sự xáo trộn trầm trọng. Những hậu quả của sự xáo trộn này
lại đè nặng lên con người. Những hậu quả này có giá trị như là sự trừng phạt.
Đối với người nữ, đó là sự đau đớn khi sinh nở và sự tùng phục đầy khó khăn đối
với người nam: “ Ngươi sẽ thèm muốn chồng
ngươi, và nó sẽ thống trị ngươi” (St
3,16b). Tuy nhiên, sự trừng phạt không phải là lời cuối cùng; sự trừng phạt
được đồng hành bởi lời hứa cứu độ.
Ở đây chúng ta hiểu được khó khăn riêng cho vấn đề
làm chúng ta bận tâm. Bởi tội lỗi mình gây ra, con người tự lìa xa bản tính
riêng của mình và những mục đích của đời mình, những mục đích vốn được Thiên
Chúa muốn. Ngôn ngữ không còn là ngôn ngữ của hiệp thông các nhân vị, nhưng là
ngôn ngữ của thống trị tạo ra mối tương quan bất bình đẳng, trong đó những đặc
quyền của người bị thống trị không còn được kính trọng. Trong hoàn cảnh này,
những khác biệt giới tính mà chúng ta nhận ra trong lịch sử và trong các tập
tục xã hội phải chăng là những biểu hiện của sự bổ túc có từ nguyên thuỷ, hay
chỉ là những tương quan thống trị do tội lỗi gây ra? Các định kiến có sức nặng
của nó, nên việc giải thích sự khác biệt giới tính không luôn dễ dàng.
Với điểm xuất phát này, hai bản văn của Tân Ước mở
ra những viễn cảnh giải thoát. Bản văn thứ nhất liên quan đến giáo huấn của
Chúa Giê-su về hôn nhân và li dị (Mt
19,1-12; x. Mc 10,1-12). Cơ hội được
tạo ra với câu hỏi của những người biệt phái liên quan đến việc rẫy vợ. Chúa
Giê-su nhắc cho những người chất vấn Người các trình thuật sáng tạo. “Vậy, sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài
người không được phân ly” (Mt 19,
6). Họ bắt bẻ Người tại sao luật Mô-sê lại cho phép rẫy vợ. Chúa Giê-su trả lời
họ rằng “Vì các ông lòng chai dạ đá, nên
ông Mô-sê đã cho phép các ông rẫy vợ, chứ thuở ban đầu không có thế đâu” (Mt 19,8). Lòng chai dạ đá phản ánh điều
kiện lịch sử của con người tội lỗi, giúp giải thích sự miễn thứ của Luật cũ.
Nhưng dưới chế độ của Luật mới, con người có khả năng tìm gặp lại ý định của
thuở ban đầu và sống theo những đòi hỏi của bản tính đích thực của mình. Luật
Tin Mừng làm cho những miễn thứ của Luật cũ trở thành vô hiệu. Khi xem xét các
hoàn cảnh xã hội và văn hóa, mỗi lần như thế phải đặt câu hỏi: hoàn cảnh này có
phù hợp với luật đã có từ thuở ban đầu, hay nảy sinh từ “lòng chai dạ đá”?
Bản văn thứ hai quy chiếu vào những lời của Thánh
Phao-lô về cấu trúc của Luật mới mà chúng ta đọc thấy trong Thư gởi tín hữu Ga-lát (3,26-28): “Thật vậy, nhờ đức tin tất cả anh em đều là
con cái Thiên Chúa trong Đức Giê-su Ki-tô. Quả thế, bất cứ ai trong anh em được
thánh tẩy để thuộc về Đức Ki-tô, đều mặc lấy Đức Ki- tô. Không còn chuyện phân
biệt Do-thái hay Hy-lạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà; nhưng tất cả anh
em chỉ là một trong Đức Ki-tô”. Thánh Phao-lô khởi đi từ những phân biệt
lịch sử tồn tại như những yếu tố chia rẽ và đối kháng, để làm nổi bật đời sống
mới trong Đức Ki-tô. Đời sống mới này dẫn đưa vào mối hiệp nhất, và những phân
biệt lịch sử trở thành thứ yếu so với mối hiệp nhất này. Thánh Phao-lô chỉ ghi
nhận sự tồn tại của những phân biệt này, chứ không có ý phân tích chúng. Thực
vậy, những phân biệt này có bản chất rất khác nhau. “Người Do-thái” và “Người
Hy-lạp” phản ánh sự phân biệt cốt yếu trong cấu trúc của Luật cũ. Sự phân biệt
giữa người nô lệ và người tự do lại thuộc về điều mà ngày nay chúng ta gọi là
cơ cấu tội lỗi. Không chút nghi ngờ, sự phân biệt nam-nữ lại được xem xét theo
quy ước xã hội thời bấy giờ. Vì thế qua bản văn của Thánh Phao-lô, chúng ta có
được một khẳng định mạnh mẽ về sự bình đẳng.
4. Từ những điều vừa trình bày, chúng ta có thể
rút ra vài điểm mấu chốt. Trước hết, mọi người, nam cũng như nữ, đều có một
phẩm giá nhân vị bất khả nhượng, và phẩm giá này là nguồn gốc của những quyền
không thể bị tước đoạt. Phẩm giá này là nền tảng cho sự bình đẳng giữa người
nam và người nữ. Và đó là dữ kiện đầu tiên. Kế đến, sự khác biệt giới tính là
sự giàu có của nhân loại. Sự khác biệt này phải được hiểu như sự bổ túc và như
ơn gọi hướng đến sự hiệp thông và sự tự hiến. Nhận xét thứ ba dựa trên lịch sử
nhân loại, được ghi dấu bởi sự sa ngã nguyên thuỷ và ơn Cứu độ. Nhờ sức mạnh
của ân sủng, con người có thể tìm thấy lại con đường nguyên thuỷ theo ý định
của Thiên Chúa về hôn nhân.
Bình đẳng trong khác biệt: làm thế nào hòa hợp hai
khía cạnh cốt yếu này? Chắc chắn câu trả lời không nằm trong sự rập khuôn máy
móc và một thứ nam giới hóa phụ nữ. Đối với phụ nữ, nữ tính được coi là biểu
hiện đích thực của “hình ảnh và giống như”, hiểu là giống như Thiên Chúa. Khi
chú giải sách Sáng thế chương 1, câu
27, ĐGH Gio-an Phao-lô II đã viết lên điều tuyệt vời này: “Chúng ta nói, tác giả Sách thánh có chủ tâm tuyên bố rằng tự thân người
nữ giống với Thiên Chúa không kém gì so với người nam, và người nữ đã được tạo
dựng theo hình ảnh Thiên Chúa trong những điều đặc thù cho nhân vị của mình với
tư cách là người nữ, chứ không chỉ trong những điều người nữ có chung với người
nam. Đó là sự bình đẳng trong khác biệt, một sự bình đẳng và khác biệt riêng
cho người nữ vốn phải được nhìn nhận trong xã hội dân sự và trong Giáo hội”
(Tiếp kiến chung, ngày 22 tháng 6 năm 1994).
5. Nhìn nhận nơi người nữ phẩm giá bình đẳng và
quyền bình đẳng mở ra cho họ quyền lợi tương xứng với một trách nhiệm bình đẳng
và sự tham gia bình đẳng vào đời sống văn hóa, kinh tế, xã hội và chính trị.
Nhưng việc thực thi quyền tham gia bình đẳng phải đi đôi với việc nhìn nhận ơn
gọi nữ tính đặc thù. Việc thực thi quyền tham gia bình đẳng sẽ không thể nào có
được nếu không lưu tâm đến ơn gọi này, bằng cách gây thiệt hại cho tình mẫu tử
và gia đình, như vẫn thường xảy ra.
Các Ki-tô hữu có bổn phận đặc biệt phải tố giác
những xúc phạm đến phẩm giá của phụ nữ và phải hành động nhằm thăng tiến hữu
hiệu việc nhìn nhận phẩm giá của phụ nữ.
Sứ điệp Ki-tô giáo chạm trán với não trạng nhìn
mỗi con người không như một nhân vị, nhưng như một sự vật, một đối tượng để
buôn bán nhằm trục lợi ích kỷ và vui thú. Phụ nữ là nạn nhân đầu tiên của não
trạng này. Phụ nữ chịu đau khổ vì sự khinh miệt, áp bức và bạo lực. Việc khiêu
dâm làm ô huế hình ảnh Thiên Chúa. Việc mãi dâm, được tiếp tay rộng rãi trong
nhiều lãnh vực của xã hội, là một hình thức nô lệ đặc biệt ghê tởm, vốn khai
thác nỗi cùng khốn của thế giới thứ ba và xâm phạm ngay cả các thiếu niên.
Chúng ta cũng nghĩ đến những phân biệt đối xử với những thiếu nữ trong lãnh vực
giáo dục. Những xã hội công nghệ cũng không tránh khỏi sự kỳ thị trong lãnh vực
lao động và tiền lương chẳng hạn, hoặc trong một vài lãnh vực chỉ dành riêng
cho phụ nữ. Phải ra sức đấu tranh để thay đổi não trạng vốn nuôi dưỡng những
bất bình đẳng và không nhìn nhận phẩm giá nhân vị và sự bình quyền của phụ nữ.
Nhưng tố giác thôi chưa đủ. Trên hết còn phải
thăng tiến sự kính trọng toàn vẹn những quyền của phụ nữ, trên bình diện chính
trị và pháp lý cũng như trên bình diện não trạng. Trong lãnh vực này, các Ki-tô
hữu phải trở nên những người tiên phong. Chúng ta nghĩ đến việc sắp xếp thời
gian làm việc, đến việc nhìn nhận đầy đủ công việc nội trợ thường bị coi như
thấp kém hơn công việc bên ngoài, đến sự bình đẳng giữa vợ chồng trong quyền
lợi của gia đình, đến sự kính trọng và nâng đỡ tình mẫu tử và gia đình, tóm lại
đến sự cải tiến những điều kiện lao động, cho phép phụ nữ thực hành ơn gọi đặc
thù của mình, trong khung cảnh bình quyền.
6. Thực tế, ở đâu phụ nữ không được nhìn nhận như
một nhân vị với quyền bình đẳng, các mối tương quan con người chỉ còn là những
mối tương quan bạo lực không thể tránh khỏi. Phụ nữ là nạn nhân đầu tiên của
hoàn cảnh này, một hoàn cảnh làm mất luôn cả phẩm giá của người nam. Trong hoàn
cảnh đó, không thể có đối thoại và hiệp thông, và nhân tính của người nam cũng
như của người nữ đều bị tổn thương.
Hồng y Georges Cottier
Lm. Phao-lô Nguyễn Thành Sang chuyển ngữ theo bản
tiếng Pháp
Trích Bản tin Hiệp Thông / HĐGMVN số 101 tháng 7
& 8 năm 2017
Nguồn: Truyền thông HĐGMVN
Thư mục:
- GIO-AN PHAO-LÔ II, Tông huấn Familiaris consortio (ngày 22 tháng 11 năm 1981), số
22-24.
- GIO-AN PHAO-LÔ II, Tông thư Mulieris dignitatem (ngày 15 tháng 8 năm 1988).
- GIO-AN PHAO-LÔ II, Diễn văn tại cuộc tiếp kiến chung ngày 22 tháng 6 năm 1994.
- GIO-AN PHAO-LÔ II, Sứ điệp cho ngày hòa bình thế giới, 1-1-1995: Phụ nữ, nhà giáo dục hòa
bình (ngày 08 tháng 12 năm 1994).
- GIO-AN PHAO-LÔ II, Thư gởi các phụ nữ (ngày 29 tháng 6 năm 1995).
- Anne-Marie PELLETIER, Ki-tô giáo và phụ nữ, hai mươi thế kỷ lịch sử, Paris, Cerf, 2001.
- Pia Francesca de SOLENNI, Chú giải về người nam của Thánh Tô-ma A-qui-nô qua nhận thức luận về sự
khác biệt giới tính, hướng tới sự hiểu biết người nữ như hình ảnh Thiên Chúa.
Luận án tiến sĩ thần học, Đại học giáo hoàng Santae Crucis, Rô-ma, 2000.
- Tìm kiếm bình an nội tâm ư? Hãy thử đi xưng tội! ( 18/03/2023)
- Làm sao để mùa chay là mùa lắng nghe và phân định nhằm canh tân đời sống đức tin? ( 17/03/2023)
- Công đồng Vaticanô II, một sức mạnh để canh tân Giáo hội ( 16/03/2023)
- Luật tự nhiên ( 09/03/2023)
- Tiến trình Hồ sơ cho án phong chân phước và phong thánh ( 26/02/2023)
- Đức Giê-su Ki-tô – Đường ân sủng ( 25/02/2023)
- Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần ( 24/02/2023)
- Nhân vị và hành vi nhân linh ( 21/02/2023)
- Nhân đức tôn giáo theo thánh Tôma Aquinô và việc giáo dục lòng tôn trọng trong một thế giới thế tục hóa ( 20/02/2023)
- Đức Bênêđictô XVI và sự tự do con người ( 12/02/2023)