Bí quyết của lời nguyện chuyển cầu từ Áp-ra-ham đến Chúa Giê-su

19/11/2020


BÍ QUYẾT CỦA LỜI NGUYỆN CHUYỂN CẦU TỪ ÁP-RA-HAM ĐẾN CHÚA GIÊ-SU

Giê-ru-sa-lem ngày 18 tháng 11 năm 2020
Linh mục Giu-se Nguyễn công Đoan, S.J.

WHĐ (19.11.2020) – Chuyện kể về một bà mẹ góa với đứa con côi. Con là niềm vui của mẹ, mẹ là niềm vui của con. Con cười thì mẹ cười, con khóc thì mẹ khóc, có khi mẹ khóc trước con, như khi thấy con đói mà mẹ chưa kiếm được gì cho con ăn... Hai mẹ con như một cặp song ca hoàn toàn ăn ý. Đứa bé tinh khôn, chẳng bao giờ muốn làm mẹ nó buồn. Nhưng một hôm nó cũng làm mẹ buồn đến nỗi mẹ sai nó đi lấy cái roi cho mẹ... Nó cầm cái roi tới đặt trước mặt mẹ rồi ôm chầm lấy mẹ. Mẹ ơi con lỡ làm mẹ buồn nhưng con không muốn mẹ khóc đâu. Mẹ khóc thì con đau hơn mẹ đánh, mà mẹ đánh con thì mẹ sẽ khóc... Thế rồi hai mẹ con ôm nhau, quên cả cái roi...

Chuyện một người cha có cách dạy con khác người. Hồi tôi mới được mời vào ở “Khách Sạn Cây Mít” trong "Sở CA T.P.H.C.M." [1], tôi ở chung phòng với ông Cao Dao, một nhà báo lão thành từ thời Bảo Đại, khi ấy ông đã 67 tuổi. Ông kể cho tôi về cách dạy con khác người của cha ông, là một tri phủ. Mỗi khi đứa con nào làm điều sai trái cần phải sửa dạy. Ông ra ngồi trước bàn thờ tổ, gọi đứa con có lỗi, sai đem roi tới cho ông. Con cầm roi tới, ông bảo con chắp tay đứng trước bàn thờ, ông cầm roi đặt trước bàn thờ, trang trọng thắp nhang vái tổ... Phủ phục vập đầu nhận tội, xin tổ tiên tha thứ vì không biết dạy con… Rồi ông cởi áo, cầm roi tự quất vào lưng trần của mình...

Hai câu chuyện này luôn theo tôi khi tôi đọc sách Thánh, nhìn ngắm cách cư xử của Thiên Chúa với tổ phụ Áp-ra-ham, với dòng dõi Áp-ra-ham theo huyết nhục là dân của giao ước Xi-nai, với dân của Giao Ước Mới và với cả loài người được mời gia nhập Giao Ước Mới: người ta có nhận hay không là quyền tự do của họ, nhưng về phía Thiên Chúa, Ngài đã nhận tất cả con cái loài người làm con cái của Ngài rồi và đối xử như một người cha nhân lành, chỉ muốn cho con nên người để không làm hổ mặt ông bà tổ tiên.

Chuyển cầu hay “cầu thay nguyện giúp" là nhu cầu của loài người trong đời sống hàng ngày: mẹ đứng ra xin bố ngưng đánh con… các con súm lại van xin bố mẹ… có việc với quan lớn "thanh liêm" thì đi cửa sau, đem lễ hậu nhờ bà lớn nói giúp… Ngày xưa cũng như ngày nay. Trong truyện Kiều, cha bị vu oan, nhưng muốn gỡ cho cha thì «có ba trăm lượng việc này mới xong». «Gia cư nghĩ cũng thường thường bậc trung » thì đào đâu ra ba trăm lượng cho quan ăn !? Thúy Kiều đành phải bán mình lấy tiền chuộc cha. Ngẫm nghĩ về việc này Tam Nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến đã ngâm vịnh: «Ba trăm lượng việc ấy mà xong nhỉ - Thuở trước làm quan cũng thế à ?» Cụ sống ở thời nhiễu nhương đầu thế kỷ 20, tưởng thời xưa khá hơn, ai dè 300 năm trước người ta cũng biết làm quan… tham để ăn rồi !

Thiên Chúa nhân từ vô cùng, yêu thương từng người, chẳng cần ai nói giúp ai, cũng không ai có thể «mua» qua cửa trước hay qua cửa sau, nhưng con người cần học sống liên đới với nhau để sống tình huynh đệ như ý định của Thiên Chúa khi tạo dựng loài người.

Ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã tố cáo dân Chúa thời sắp bị lưu đầy vì họ tưởng Thiên Chúa bao che cho tội ác của họ:

Đây là lời ĐỨC CHÚA phán với ông Giê-rê-mi-a: 2Ngươi hãy đứng ở cửa Đền Thờ ĐỨC CHÚA và tuyên bố những lời sau đây: Tất cả những người Giu-đa qua cửa này vào thờ phượng ĐỨC CHÚA, hãy nghe lời ĐỨC CHÚA. 3ĐỨC CHÚA các đạo binh là Thiên Chúa của Ít-ra-en phán: Hãy cải thiện lối sống và hành động của các ngươi, Ta sẽ cho các ngươi lưu lại nơi này. 4Đừng ỷ vào lời giả dối sau đây: “Đền Thờ của ĐỨC CHÚA ! Đền Thờ của ĐỨC CHÚA ! Đã có Đền Thờ của ĐỨC CHÚA !” 5Nếu các ngươi thật sự cải thiện lối sống và hành động của các ngươi, nếu các ngươi thật sự đối xử công bằng với nhau, 6không ức hiếp ngoại kiều hay cô nhi quả phụ, nếu các ngươi không đổ máu người vô tội nơi đây, không đi theo các thần ngoại mà chuốc hoạ vào thân, 7thì Ta sẽ cho các ngươi lưu lại nơi này, trong phần đất Ta đã ban cho cha ông các ngươi đến muôn đời. 8Nhưng các ngươi lại ỷ vào những lời dối trá vô giá trị. 9Trộm cắp, giết người, ngoại tình, thề gian, đốt hương tế thần Ba-an và đi theo các thần lạ các ngươi không biết, 10rồi lại vào nhà này, nơi danh Ta được kêu khấn, đến trước mặt Ta mà nói: “Chúng ta được an toàn !”, sau đó cứ tiếp tục làm những điều ghê tởm ấy. Thế nghĩa là gì ? 11Phải chăng các ngươi coi nhà này, coi nơi danh Ta được kêu khấn là hang trộm cướp sao ? Ta, Ta thấy rõ hết – sấm ngôn của ĐỨC CHÚA. (Gr 7,1-11).

Những lời này vẫn có giá trị cho mọi thành phần của Dân Chúa hôm nay. Đừng đổ tội cho người khác, nhưng hãy cầu cho nhau và cho mọi người; mỗi người phải lo xét mình và đấm ngực mình, đừng đấm ngực người khác, lo cải thiện đời sống bản thân trước khi vạch tội người khác và đòi người khác cải thiện đời sống của họ.

Chuyện thời sự nóng bỏng cho thấy trong Hội Thánh ngay thời chúng ta đây, nhiều vị cao cấp ngay trong cái gọi là “giáo triều Rô-ma” cũng nhận tiền để bao che mọi thứ tội ác ghê tởm nhất của McCarrick, Hồng Y nổi tiếng [mọi mặt !], tổng giám mục giáo phận Washington, thủ đô nước Hoa Kỳ, cho tới khi ĐTC Phan-xi-cô ra tay truất tước hồng y năm 2018 và truất bậc giáo sĩ năm 2019. Hồ sơ 460 trang được Tòa Thánh công bố hôm 10 tháng 11 năm 2020 vừa qua cho thấy ông đã dùng đô-la che mắt bịt miệng bao nhiêu vị chức sắc có nhiệm vụ điều tra về những cáo buộc lạm dụng tính dục mọi lứa tuổi. Các vị này đã che đậy cho ông ta từ đời thánh Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II cho tới Đức Bênêđictô XVI. Năm 2000 ông ta còn dùng đến lời thề long trọng nhờ thư ký Dziswiz chuyển tới ĐTC Gioan Phao-lô II để khẳng định mình vô tội, mọi thứ cáo buộc toàn là cáo gian. Trong cuộc họp bầu Đức Phan-xi-cô làm người kế vị thánh Phê-rô, ông ta đã quá tuổi hồng y cử tri (80) nên không tham dự. Nhưng chuyện của ông ta vẫn là khối u nhức nhối chưa giải quyết xong. Năm 2017 mới có được bằng chứng không thể chối cãi, thế là ĐTC Phan-xi-cô thẳng tay xử ngay và tuyên án năm 2018. Bao nhiêu vị Sứ Thần Tòa Thánh tiếp nối nhau ở Hoa kỳ từ thời ĐTC Gioan Phao-lô II, không làm sáng tỏ được những lời cáo buộc. Trong đó có Carlo Maria Vigano, người hiện nổi tiếng một cách đáng buồn: Đức Bênêđictô XVI giao cho ông ta, trong nhiệm vụ Sứ Thần Tòa Thánh tại Hoa Kỳ, điều tra… ông ta cũng ậm ờ cho qua. Hết nhiệm kỳ và quá tuổi, ông ta ở lại nghỉ hưu ở Hoa Kỳ. Khi ĐTC Phan-xi-cô ra tay thì ông ta mượn gió bẻ  măng lấp tội mình, cả gan đòi ĐTC Phan-xi-cô từ chức vì ông ta đã báo cáo mà bao che bỏ qua… Đức Hồng Y Ouellet, bộ đặc trách Giám Mục đã lập tức chỉ rõ sai lầm của ông ta. (xem tại xuanbichvietnam.net)  Từ đó đến nay ông ta núp đâu đó bên Mỹ, tiếp tục dùng mọi cơ hội tấn công ĐTC Phan-xi-cô và làm mướn không công cho tổng thống Trump mà ông ta tôn thờ như vị cứu tinh Thiên Chúa sai cứu nước Mỹ và Giáo Hội Mỹ. Chờ xem khi Tòa Thánh truy trách nhiệm các vị đã bao che cho McCarrick, trong đó có đích danh Vigano, xem ông ta đã ngậm bao nhiêu đô-la của McCarrick.

Đừng ai ngạc nhiên, trong Mười Hai Tông Đồ đã có một ông bán Chúa với giá 1/10 chai dầu thơm hạng sang !! 20 thế kỷ sau… người ta tiến bộ hơn thời ông Giu-đa. Tạ ơn Chúa vì Hội Thánh không gồm các thiên thần, nhưng gồm những con người bằng xương bằng thịt… nhờ thế tôi mới được gia nhập! Mỗi người hãy theo lời thánh Phao-lô căn dặn: «Ai đang đứng, coi chừng kẻo té» (1Cr 10,12).

*****

ÁP-RA-HAM, Tổ Phụ của những kẻ tin thờ Thiên Chúa (Rm 4,11)

Ông là người chuyển cầu thứ nhất chúng ta gặp trong Sách Thánh. Thiên Chúa coi ông là bạn thân của Ngài (x. Is 41,8), nên không nỡ giấu ông điều Ngài sắp làm cho các thành Gô-mô-ra và Sô-đô-ma (St 18,16-33) :

Từ nơi đó ba người kia đứng dậy và nhìn xuống phía Xơ-đôm. Ông Áp-ra-ham cùng đi để tiễn khách. 17ĐỨC CHÚA phán: “Ta có nên giấu Áp-ra-ham điều Ta sắp làm chăng ? 18Áp-ra-ham sẽ trở thành một dân tộc lớn mạnh và mọi dân tộc sẽ được chúc phúc nhờ nó. 19Thật vậy, Ta đã chọn nó, để nó truyền cho con cái nó và gia tộc nó sau này phải giữ đường lối của ĐỨC CHÚA mà thực hiện điều công minh chính trực ; như thế, ĐỨC CHÚA sẽ làm cho Áp-ra-ham điều Người đã phán về nó.” 20ĐỨC CHÚA phán: “Tiếng kêu trách Xơ-đôm và Gô-mô-ra thật quá lớn ! Tội lỗi của chúng quá nặng nề ! 21Ta phải xuống xem thật sự chúng có làm như tiếng kêu trách đã thấu đến Ta không. Có hay không, Ta sẽ biết.”

Nghe Đức Chúa nói đi kiểm chứng xem tiếng kêu trách có đúng không, ông Áp-ra-ham lập tức xin chặn trước để Ngài tha cho các thành ấy, vì ông nghĩ chẳng lẽ hư hết 100%: 

 ĐỨC CHÚA còn đứng lại với ông Áp-ra-ham. 23Ông lại gần và thưa : “Chẳng lẽ Ngài tiêu diệt người lành một trật với kẻ dữ sao ? 24Giả như trong thành có năm mươi người lành, chẳng lẽ Ngài tiêu diệt họ thật sao ? Chẳng lẽ Ngài không dung thứ cho thành đó, vì năm mươi người lành trong đó sao ? 25Ngài làm như vậy, chắc không được đâu ! Giết chết người lành một trật với kẻ dữ, coi người lành cũng như kẻ dữ, chắc không được đâu ! Đấng xét xử cả trần gian lại không xét xử công minh sao ?” 26ĐỨC CHÚA đáp: “Nếu Ta tìm được trong thành Xơ-đôm năm mươi người lành, thì vì họ, Ta sẽ dung thứ cho tất cả thành đó.”

Đọc kỹ cách lý luận của Áp-ra-ham, thật lý thú: thân mật, tế nhị nhưng thẳng thắn nại tới bản chất của Thiên Chúa, mời Thiên Chúa suy nghĩ lại xem làm như thế có đúng tư cách của Thiên Chúa là Đấng Xét xử cả trần gian không ? …

Thiên Chúa đồng ý ngay. Ông Áp-ra-ham thấy mình “hố” liền mặc cả tiếp, lời lẽ rất khiêm tốn, nhưng rất khéo léo, coi như trong túi không có đủ tiền để trả như đã thỏa thuận, lỡ không có đủ 45 mà chỉ có 40:

Ông Áp-ra-ham lại nói: “Mặc dầu con chỉ là thân tro bụi, con cũng xin mạn phép thưa với Chúa: 28Giả như trong số năm mươi người lành lại thiếu mất năm, vì năm người đó, Ngài sẽ phá huỷ cả thành sao ?” Chúa đáp: “Không ! Ta sẽ không phá huỷ, nếu Ta tìm được bốn mươi lăm người.” 29Ông lại thưa một lần nữa: “Giả như trong thành tìm được bốn mươi người thì sao ?” Chúa đáp: “Vì bốn mươi người đó, Ta sẽ không làm.”

Thiên Chúa cũng chịu xí xóa ngay. Ông thấy có vẻ còn bớt được, xin tiếp. Bớt một chục luôn, và từ năm chục ông lần lượt xuống tới một chục:

Ông nói: “Xin Chúa đừng giận, cho con nói tiếp: Giả như ở đó có ba mươi người thì sao ?” Chúa đáp: “Nếu Ta tìm được ba mươi người, Ta sẽ không làm.” 31Ông nói: “Con xin mạn phép thưa với Chúa: Giả như tìm được hai mươi người thì sao ?” Chúa đáp: “Vì hai mươi người đó, Ta sẽ không phá huỷ.” 32Ông nói: “Xin Chúa đừng giận, cho con nói một lần này nữa thôi: Giả như tìm được mười người thì sao ?” Chúa đáp: “Vì mười người đó, Ta sẽ không phá huỷ Xơ-đôm.”[2]

Ôi, uổng quá Cụ Tổ ơi, sao Cụ không dám xin bớt tiếp ? Đành chờ khi lên gặp Cụ Tổ ta sẽ hỏi cho rõ vậy. Trước mắt ta đành ghi nhận một bên là sự mạnh dạn và khiêm tốn của Cụ Tổ, một bên là sự rộng rãi của Thiên Chúa… vì tình bạn hữu sẵn sàng lấy giá tượng trưng ! Sau này ta sẽ thấy Thiên Chúa quả là «tình cho không biếu không, chớ nên mua bán tình yêu», như lời một bài hát quen thuộc trước 1975.

MÔ-SÊ, người trung gian

Ông Mô-sê được Thiên Chúa chọn làm trung gian giữa Thiên Chúa với Pha-ra-ô và giữa Thiên Chúa với dòng dõi Áp-ra-ham mà Chúa coi là dân của Chúa, để đưa dân ra khỏi Ai-cập, dẫn tới núi của Chúa để Chúa lập giao ước với họ, rồi đưa họ vào Đất Hứa. Một mình làm trung gian hai phía. Thiên Chúa trực tiếp chiến đấu với Pha-ra-ô, còn ông phải một  mình chiến đấu với dân của ông, vì họ cứng lòng tin, cho tới khi được thấy ánh sáng của tự do bên kia biển, «toàn dân mới kính sợ Đức Chúa, tin vào Đức Chúa, tin vào ông Mô-sê, tôi trung của Người» (Xh 14,31). Nhờ thế ông đã hiểu phần nào lòng dạ của Thiên Chúa. Tôi nói phần nào thôi, vì chẳng bao lâu sau ông sẽ thấy ông vẫn còn lỗi nhịp với trái tim của Thiên Chúa.

Ngày dân đã vượt qua biển, thoát vó ngựa truy đuổi của đoàn quân Ai-cập bị nước nhận chìm đáy biển, tiếng hát hò vang dội, điệu trống nhảy múa tưng bừng hoan hỉ… Nhưng tiếng ca, nhịp trống còn vọng vang chưa hết miền hoang địa mênh mông, cổ họng đã ráo khô, chẳng còn hát được, tiếng rên của dạ dày trổi lên mạnh hơn cả tiếng biển ầm ầm chôn sống đoàn quân truy đuổi... vùi lấp niềm vui ngày giải thoát.

Tiếng ca vui bỗng thành ca cẩm (x. Xh 15,24; 16,1-16), niềm hân hoan bị tiếc nuối thế chân; niềm tin bị lung lay (14,31 🡨🡪 17,1-7). Tất cả dẫn họ tới chỗ nổi loạn hai tháng sau đó (x. Xh 32,1-6), rồi 20 năm sau, khi đã đến bờ đất Hứa, họ nổi loạn nữa (x.  Ds 14,1-12) khiến Đấng đã ra tay cứu họ như thấy tiếc công, toan xóa sổ làm lại (x. Xh 32,7-10; Ds 14,12-19).

Mỗi lần ông Mô-sê vội vàng can thiệp. Dân này bội bạc như thế thì lấy cớ gì mà van xin  cho họ? Ông Mô-sê tìm được lý từ phía Thiên Chúa (x. Xh 32,11-13; Ds 14, 13-19) và Thiên Chúa nhận lời ông xin (x. Xh 32,14; Ds 14,20-25).

Lần van xin thứ nhất:

Ông Mô-sê cố làm cho nét mặt ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ông, dịu lại. Ông thưa: “Lạy ĐỨC CHÚA, tại sao Ngài lại bừng bừng nổi giận với dân Ngài, dân mà Ngài đã giơ cánh tay mạnh mẽ uy quyền đưa ra khỏi đất Ai-cập ? 12Tại sao người Ai-cập lại có thể rêu rao: Chính vì ác tâm mà Người đã đưa chúng ra, để giết chúng trong miền núi và tiêu diệt chúng khỏi mặt đất ? Xin Ngài nguôi cơn thịnh nộ và xin Ngài thương đừng hại dân Ngài. 13Xin Ngài nhớ đến các tôi tớ Ngài là Áp-ra-ham, I-xa-ác và Ít-ra-en ; Ngài đã lấy chính danh Ngài mà thề với các vị ấy rằng: Ta sẽ làm cho dòng dõi các ngươi đông đúc như sao trên trời, và sẽ ban cho dòng dõi các ngươi tất cả miền đất ấy, là miền đất Ta đã hứa ; chúng sẽ được thừa hưởng miền đất ấy đến muôn đời.” (Xh 32,11-13)

Lần van xin thứ hai:

Ông Mô-sê thưa với ĐỨC CHÚA: “Người Ai-cập đã nghe biết rằng Ngài đã dùng sức mạnh của Ngài mà đưa dân này ra khỏi đất chúng14chúng đã kể lại việc đó cho cư dân đất này. Dân đất này đã nghe biết rằng chính Ngài, ĐỨC CHÚA, Ngài ở giữa dân này, chính Ngài, ĐỨC CHÚA, Ngài cho họ được thấy Ngài tận mắt, rằng đám mây của Ngài dừng trên họ, và Ngài đi trước họ ban ngày trong cột mây và ban đêm trong cột lửa. 15Thế mà ĐỨC CHÚA lại muốn giết cả dân này như giết một người! Các nước đã từng nghe danh tiếng Ngài sẽ nói: 16‘Chính bởi vì ĐỨC CHÚA đã không thể đem dân ấy vào đất Người đã thề ban cho chúng, mà Người đã hạ sát chúng trong sa mạc.’ 17Vậy giờ đây, xin Chúa Thượng của con biểu dương sức mạnh, như Ngài đã phán: 18 Dân đất này đã nghe biết rằng chính Ngài, ĐỨC CHÚA, Ngài ở giữa dân này, chính Ngài, ĐỨC CHÚA, Ngài cho họ được thấy Ngài tận mắt, rằng đám mây của Ngài dừng trên họ, và Ngài đi trước họ ban ngày trong cột mây và ban đêm trong cột lửa. 15Thế mà ĐỨC CHÚA lại muốn giết cả dân này như giết một người ! Các nước đã từng nghe danh tiếng Ngài sẽ nói: 16‘Chính bởi vì ĐỨC CHÚA đã không thể đem dân ấy vào đất Người đã thề ban cho chúng, mà Người đã hạ sát chúng trong sa mạc.’ 19Vậy xin Ngài tha thứ lỗi lầm của dân này theo lượng cả ân nghĩa của Ngài, như Ngài đã từng chịu đựng dân này từ Ai-cập cho đến đây.” (Ds 14,13-16)

Lần van xin thứ nhất, ông Mô-sê đưa ra hai lý do:

1/ Nếu Thiên Chúa tiêu diệt dân này thì người Ai-cập sẽ nói gì? 

12Tại sao người Ai-cập lại có thể rêu rao: Chính vì ác tâm mà Người đã đưa chúng ra, để giết chúng trong miền núi và tiêu diệt chúng khỏi mặt đất ? 

2/ Lời Thiên Chúa đã lấy chính Danh Ngài mà thề với Áp-ra-ham...

13Xin Ngài nhớ đến các tôi tớ Ngài là Áp-ra-ham, I-xa-ác và Ít-ra-en ; Ngài đã lấy chính danh Ngài mà thề với các vị ấy rằng: Ta sẽ làm cho dòng dõi các ngươi đông đúc như sao trên trời, và sẽ ban cho dòng dõi các ngươi tất cả miền đất ấy, là miền đất Ta đã hứa ; chúng sẽ được thừa hưởng miền đất ấy đến muôn đời.” 

Lần van xin thứ hai ông cũng đưa ra hai lý do:

Lý do thứ nhất tương tự như lần trước, nhưng trình bày theo bối cảnh mới:

1/ Dân đất này đã nghe biết rằng chính Ngài, ĐỨC CHÚA, Ngài ở giữa dân này, chính Ngài, ĐỨC CHÚA, Ngài cho họ được thấy Ngài tận mắt, rằng đám mây của Ngài dừng trên họ, và Ngài đi trước họ ban ngày trong cột mây và ban đêm trong cột lửa. 15Thế mà ĐỨC CHÚA lại muốn giết cả dân này như giết một người ! Các nước đã từng nghe danh tiếng Ngài sẽ nói: 16‘Chính bởi vì ĐỨC CHÚA đã không thể đem dân ấy vào đất Người đã thề ban cho chúng, mà Người đã hạ sát chúng trong sa mạc. (Ds 14,14-16)

2/ Lý do thứ hai: 19Vậy xin Ngài tha thứ lỗi lầm của dân này theo lượng cả ân nghĩa của Ngài, như Ngài đã từng chịu đựng dân này từ Ai-cập cho đến đây. (Ds 14,19)

Ông không nhắc lại lời hứa, nhưng nêu lên thực tế:  Thiên Chúa đã giữ lời hứa với tổ tiên mà đưa dân ra khỏi ách nô lệ và chịu đựng họ suốt thời gian qua. Yếu tố mới được nêu lên là lượng cả ân nghĩa, dựa vào mạc khải mới về Danh Thiên Chúa ở núi Xi-nai sau khi Mô-sê hành xử theo ý mình:

Đức Chúa ngự xuống trong đám mây và đứng đó với ông. Người xưng danh Người là ĐỨC CHÚA. 

6ĐỨC CHÚA đi qua trước mặt ông và xướng: “ĐỨC CHÚA ! ĐỨC CHÚA ! Thiên Chúa nhân hậu và từ bi, hay nén giận, giàu nhân nghĩa và thành tín, 7giữ lòng nhân nghĩa với muôn ngàn thế hệ, chịu đựng lỗi lầm, tội ác và tội lỗi, nhưng không bỏ qua điều gì, và trừng phạt con cháu đến ba bốn đời vì lỗi lầm của cha ông.”

Thiên Chúa không bỏ qua điều gì và sẽ trừng phạt..., nhưng giữ lòng nhân nghĩa, chịu đựng lỗi lầm, tội ác và tội lỗi muôn ngàn thế hệ! Vì như cha mẹ răn đe con: “Lần sau mà còn như vậy là bố đánh đấy...”, nhưng bao giờ là lần sau? Chờ đấy!...

Vậy thì lời Thiên Chúa đã lấy Danh Ngài mà thề với Áp-ra-ham và các tổ phụ được đẩy lên một nấc tới chính Danh của Ngài mà Ngài mới mạc khải ở núi Xi-nai.

*****

Đến đây chúng ta có thể nhận ra một điều mới. Ông Mô-sê suy nghĩ và thưa với Thiên Chúa, nếu Chúa tiêu diệt dân này thì người Ai-cập sẽ nói sao... dân cư Ca-na-an sẽ nói sao, ông lại nhắc tới Danh mà Thiên Chúa tỏ cho ông ở núi Xi-nai khi đến ban lại hai bia Chứng Ước cho ông, vì ông đã đập vỡ hai bia Thiên Chúa trao, như thể ông tự ý tuyên bố Giao Ước đã vỡ. Thiên Chúa đâu có rút lại Giao Ước đã ban, vì đó chỉ là mở rộng Giao Ước với Ap-ra-ham đến con cháu của ông như Ngài đã hứa. Bởi vậy Thiên Chúa không triệu tập dân lại trước núi nhưng chỉ kêu một mình ông Mô-sê lên núi để mạc khải cho ông và nhắc lại Luật Giao ước đã ban cho dân để ông tự tay tạc vào bia đá, làm bia Chứng Ước cho dân giữ lại mãi.

Khi Thiên Chúa gọi ông, ông đã xin biết Danh của Ngài, Ngài đã cho ông Danh Tuyệt Đối “TA LÀ” và Danh theo Giao Ước: “THIÊN CHÚA CỦA ÁP-RA-HAM, I-XA-ÁC VÀ GIA-CÓP”, đồng thời truyền dùng Danh theo Giao Ước mà gọi, để luôn nhớ rằng Thiên Chúa đã sai ông đi và đã cứu dân, không phải là Thiên Chúa ngự trên cao[3], nhưng là Thiên Chúa của Giao Ước, luôn ở với họ như đã ở với tổ tiên họ.

Nay ông đã nhận ra mình lỗi nhịp tim với Thiên Chúa, đã tỏ ra chưa biết Thiên Chúa và khiêm tốn xin: “Nếu quả thật con đã được nghĩa với Ngài, xin khấng tỏ cho con biết đường lối của Ngài, để con biết Ngài, và được nghĩa với Ngài” (Xh 33,13). Thiên Chúa vẫn giữ ông lại để phục vụ chương trình của Chúa thực hiện lời hứa với Áp-ra-ham, nên Thiên Chúa cho ông biết đường lối của Thiên Chúa, đường lối ấy nằm ngay trong Danh của Thiên Chúa. Ông đã nghe Danh Thiên Chúa mà chưa biết “Danh” ấy bao hàm những gì, nên vẫn chưa phải là biết Thiên Chúa. Lời cầu xin của ông đích đáng, Thiên Chúa đã ban điều ông xin cho ông, và hai mươi năm sau ông đã biết ứng dụng ơn mạc khải kia[4]. Ông không còn dám tự tiện ra tay như ở núi Xi-nai 20 năm trước (x. Xh 32,15-29).

Thiên Chúa đã lấy chính Danh Người mà thề, nên tất cả những gì Ngài làm để thực hiện lời thề hứa đều biểu lộ Danh Ngài. 

*****

DANH THIÊN CHÚA TRỌN VẸN NƠI ĐỨC GIÊ-SU

Verbum caro factum est

huios, filius : con - momogenes,unigenitus (Ga 1,1.14) : Con Một - prototokos,primogenitus (Cl 1,15): trưởng tử

Logos, verbum: Lời// eikôn, imago: hình ảnh //

pleroma, plenitudo: viên mãn (Cl 1,19)//apaugasma tes doxes, splendor gloriae.

To phos to alethinon: lux vera: ánh sáng thật (Ga 1,9)

Apaugasmates doxes kai character tes hypostaseos autou, splendor gloriae: phản ảnh vẻ huy hoàng, hình ảnh trung thực.

Ngài đến làm người để kể cho chúng ta biết Chúa Cha và là hiện thân Tình Yêu của Chúa Cha cho chúng ta. Ngài chuyển cầu cho chúng ta cả khi tội lỗi của chúng ta đã đóng đinh Ngài vào thập giá. Tin Mừng thứ tư cho chúng ta thấy rõ lý do Ngài dựa vào là VINH QUANG CỦA CHA. Ngài đã ban DANH CỦA CHA cho chúng ta và dựa vào đó mà chuyển cầu cho chúng ta. Danh của THIÊN CHÚA là TÌNH YÊU:

“Phần con, con đã tôn vinh Cha ở dưới đất, khi hoàn tất công trình Cha đã giao cho con làm. 5Vậy, lạy Cha, giờ đây, xin Cha tôn vinh con bên Cha: xin ban cho con vinh quang mà con vẫn được hưởng bên Cha trước khi có thế gian. 6Những kẻ Cha đã chọn từ giữa thế gian mà ban cho con, con đã cho họ biết danh Cha. Họ thuộc về Cha, Cha đã ban họ cho con, và họ đã tuân giữ lời Cha

“Lạy Cha chí thánh, xin gìn giữ các môn đệ trong danh Cha mà Cha đã ban cho con, để họ nên một như chúng ta.12Khi còn ở với họ, con đã gìn giữ họ trong danh Cha mà Cha đã ban cho con. Con đã canh giữ, và không một ai trong họ phải hư mất. (Ga 17,4-6.11-12)

Chúa Giê-su dạy chúng ta biết dựa vào đâu mà cầu xin với Chúa Cha: Thật, Thầy bảo thật anh em: Anh em mà xin Chúa Cha điều gì, thì Người sẽ ban cho anh em nhân danh Thầy24Cho đến nay, anh em đã chẳng xin gì nhân danh Thầy. Cứ xin đi, anh em sẽ được, để niềm vui của anh em nên trọn vẹn.

Hội Thánh đã ghi nhận bí quyết này và luôn cầu nguyện “nhân danh Chúa Giê-su”. Chúng ta tôn vinh Thiên Chúa cũng nhờ danh Chúa Giê-su Ki-tô, cầu xin cũng nhờ Danh Chúa Giê-su Ki-tô, cầu xin cho minh hay chuyển cầu cho người khác cũng nhờ Danh Chúa Giê-su Ki-tô.

Chuyển cầu, cầu xin cho người khác, cho cả Hội Thánh đã có từ ngày đầu, khi các môn đệ tụ họp quanh Thân Mẫu Chúa Giê-su chờ đón Thánh Thần. Sau khi hai ông Phê-rô và Gio-an bị bắt rồi được tha về, cả cộng đoàn cầu nguyện:

Được thả về, hai ông đến với các anh em và thuật lại mọi điều các thượng tế và kỳ mục đã nói với hai ông. 24Nghe vậy, họ đồng tâm nhất trí cất tiếng lên cùng Thiên Chúa: “Lạy Chúa, Ngài là Đấng tạo thành trời đất với biển khơi cùng muôn loài trong đó ; 25Ngài là Đấng đã nhờ Thánh Thần, dùng miệng tổ phụ chúng con là Đa-vít, tôi trung của Ngài, mà phán: Sao chư dân lại ồn ào náo động, sao vạn quốc dám bày kế viển vông ? 26Vua chúa trần gian cùng nổi dậy, vương hầu khanh tướng rập mưu đồ, chống lại Đức Chúa, chống lại Đấng Người đã xức dầu phong vương p.

27“Đúng vậy, Hê-rô-đê, Phong-xi-ô Phi-la-tô, cùng với chư dân và dân Ít-ra-en đã toa rập trong thành này, chống lại tôi tớ thánh của Ngài là Đức Giê-su, Đấng Ngài đã xức dầu. 28Như thế họ đã thực hiện tất cả những gì quyền năng và ý muốn của Ngài đã định trước. 29Giờ đây, lạy Chúa, xin để ý đến những lời ngăm đe của họ, và cho các tôi tớ Ngài đây được nói lời Ngài với tất cả sự mạnh dạn. 30Xin giơ tay chữa lành, và thực hiện những dấu lạ điềm thiêng, nhân danh tôi tớ thánh của Ngài là Đức Giê-su.” 31Họ cầu nguyện xong, thì nơi họ họp nhau rung chuyển; ai nấy đều được tràn đầy Thánh Thần  và bắt đầu mạnh dạn nói lời Thiên Chúa. (Cv 4, 23-31)

Trong thư Ê-phê-sô Thánh Phao-lô cũng xin các tín hữu cầu nguyện cho ngài:

Anh em cũng hãy cầu xin cho tôi nữa, để khi tôi mở miệng nói, thì Thiên Chúa ban lời cho tôi, hầu tôi mạnh dạn loan báo mầu nhiệm của Tin Mừng; 20tôi là sứ giả của Tin Mừng này cả khi tôi đang bị xiềng xích. Anh em hãy cầu xin cho tôi để khi rao giảng Tin Mừng tôi nói năng mạnh dạn, như bổn phận tôi phải nói. (6,19-20).

Các tông đồ đã nhận phần “chuyên lo cầu nguyện và phục vụ Lời Thiên Chúa”. Thánh Phao-lô gợi ý rằng việc phục vụ Lời Thiên Chúa là bổn phận của tất cả công đoàn, các Tông Đồ là những sứ giả trực tiếp công bố, còn mọi người phải cầu nguyện để các sứ giả được mạnh dạn...

Điều này càng đúng và khẩn thiết hơn trong thời đại chúng ta, khi Lời Thiên Chúa bị bao nhiêu tiếng ồn ào phủ lấp và những phản chứng do chính các người có nhiệm vụ rao giảng cũng như các tín hữu gây ra, vì không sống đúng như Lời mình đã nhận và vô hiệu hóa lời rao giảng. Các phương tiện truyền thông săn lùng và phóng đại những phản chứng, biến thành công cụ mạnh nhất để triệt hạ Hội Thánh và chế diễu lời rao giảng.

Từ khi có đời sống tu trì, các tu sĩ là những người trợ giúp không thể thiếu của bổn phận rao giảng Tin Mừng, bằng đời sống chứng tá và bằng lời cầu nguyện cho Hội Thánh. Các tu sĩ sống ơn gọi tông đồ phải kiêm cả hai, nên nhiều vị sáng lập mới như Mẹ Tê-rê-sa, lập luôn hai ngành hoạt động và chiêm niệm để bổ túc cho nhau. Thánh I-nha-xi-ô thì đòi con cái phải là người chiêm niệm trong hoạt động, đồng thời đã “hợp đồng với các tu sĩ Sac-tơ-rơ” là những người sống chiêm niệm triệt để nhất, hỗ trợ mãi mãi cho ngài và con cái sẵn sàng để đi bất cứ nơi nào trên mặt đất này theo lệnh Đức Thánh Cha.

Đức Thánh Cha Phan-xi-cô khi ra mắt lần đầu, trước khi ban phép lành cho toàn thể Dân Chúa, ngài đã khiêm tốn cúi đầu xin các tín hữu có mặt ở quảng trường Thánh Phê-rô cầu nguyện cho ngài. Mỗi ngày Chúa nhật ngài cũng kết thúc buổi đọc Kinh Truyền Tin với lời nhắc: “Xin đừng quên cầu cho tôi”.

Đến đây thì có thể nhận ra Chúa Giê-su là người con hiếu thảo đã ôm lấy Cha để xin Cha tha cho tất cả anh em của mình, và Chúa Cha là người Cha vạch lưng mình ra chịu đòn trong cuộc Thương Khó của Chúa Giê-su, Con Một Thiên Chúa đã xuống thế làm người, trở nên anh em huyết nhục của chúng ta.

Quỳ trước Chúa Giê-su trên thập giá, chúng ta có thể mượn lời thánh Phan-xi-cô Xa-vi-ê tâm sự với Chúa:

Lạy Thiên Chúa của con, con yêu mến Chúa!

Con yêu mến Chúa không phải vì trông Chúa cứu con;

cũng không phải vì sợ không yêu thì Chúa phạt trong lửa đời đời.

Lạy Chúa Giê-su của con, Chúa đã ôm trọn lấy con trên thập giá; 

Chúa chịu đinh sắt, lưỡi đòng và bao nhiêu sỉ nhục;

vô vàn đau khổ, mồ hôi và lo buồn, cả cái chết nữa:

Chúa chịu tất cả vì con, thay cho con là kẻ có tội.

Ôi lạy Chúa Giê-su, Chúa yêu mến hết tình, sao con lại không yêu Chúa?

Con yêu Chúa không phải để Chúa cứu và đưa con về trời

hay vì sợ Chúa luận phạt con đời đời.

Nhưng con yêu Chúa và con sẽ yêu Chúa như Chúa đã yêu con

chỉ vì Chúa là Vua của con và chỉ vì Chúa là Thiên Chúa của con. AMEN

 


[1] Tiếng lóng chỉ trại giam đặc biệt ở sở Công An, vì ở lối vào dãy nhà này có cây mít.

[2] Sống trên miền đất mà Cụ Tổ đã đo bằng đôi chân của mình hôm nay, thì hiểu được lối ra giá và mặc cả thú vị này, không phải với những người tự coi là dòng dõi Áp-ra-ham theo huyết nhục đã lưu lạc khắp tứ phương, nhưng là với những người chân đất vẫn tiếp tục lấy đôi chân đo đất này suốt hai ngàn năm qua. Trong truyện Áp-ra-ham còn có một vụ mua đất mà Cụ Tổ phải cắn răng trả giá cắt cổ, đó là vụ mua đất để chôn bà Tổ Sa-ra. Bắt đầu người ta nói rất quảng đại, sẵn sàng biếu không... cuối cùng ra giá cắt cổ bốn trăm lượng (bốn ký) bạc, mà vì lo chôn người chết thì không được mặc cả! (x. St 23,3-20).

[3] Một bài hát thời xưa: “Lạy Chúa con là người ngoại đạo, nhưng tin có Chúa ngự trên cao”. Không ít khi chúng ta cũng sống như thể Thiên Chúa chúng ta thờ cũng là “Thiên Chúa ngự trên cao” của “người ngoại đạo” này, chứ không phải là Cha chúng ta như Chúa Giê-su đã dạy. Thiên Chúa của chúng ta là THIÊN CHÚA Ở CÙNG CHÚNG TA trong Đức Ki-tô, trong Hội Thánh, và trong các bí tích Chúa đã ban cho Hội Thánh, nhất là bí tích Thánh Thể, trong Lời Chúa là Lời sống động ngỏ với chúng ta.

[4] Tôi có một thí dụ cụ thể. Một người con rể của anh con bác tôi: hai anh em tôi đã đọc cho cậu ta chép gia phả bốn đời của gia tộc mà hai anh em nhớ được, để con cháu tiếp tục biết dòng họ của mình, vì khi di cư năm 1954 đã mất hết giấy tờ tổ tiên để lại. Cậu rể này hãnh diện vì biết hết tên các cụ trong gia phả 4 đời, tự coi mình là con chứ không phải rể nữa. Nhưng cách hành xử của anh ta thì chẳng hợp với truyền thống Nguyễn tộc của chúng tôi tí nào. Anh tôi đã chết, tôi là người cuối cùng còn lại của thế hệ chúng tôi. Tôi đã viết di chúc cho các cháu bên nội, kể lại chuyện trong gia đình từ đời bà nội tôi và con dâu bà nội tôi, tức là bà nội của các cháu. Đọc di chúc này thì các cháu nhận ra cậu rể kia từ thâm tâm vẫn là ngoại tộc.

LỊCH PHỤNG VỤ